“...người Việt tị nạn chưa bao
giờ được hưởng quyền tị nạn, chưa nói đến quyền của một công dân Trung Quốc.
Cuộc đời của chúng ta bị đảng CSVN bài Hoa, rồi đến đảng CSTQ từ chối gốc tịch
Hoa!…”
Biên giới của Ta, sao lại của người?
Đồng hồ đã hơn 8 giờ 12 phút
sáng. Trong nhà nhiều tiếng nói ồn ào, tôi thức dậy, chân bước nhẹ đến khe cánh
cửa ngó thấy nào là Đào xích lô, Tùng Trung sĩ, Mỹ Châu hộ sản, Linh Ái Cầu
Muối, Thảo Liên Dược, chị Trần Thị Trang Y Khoa và Vinh cút kít. Tôi vội ra sau
nhà rửa mặt, đúng lúc anh Minh bước vào nói:
Tôi vội vã rửa mặt, thay quần áo,
trong người vẫn còn lừ đừ bởi ngủ chưa lấy lại sức, thế mà trong lòng vẫn reo
lên niềm vui, đầy ắp háo hức, chân bước rội ra chào bạn bè, đụng phải ngạch
cửa, đầu chúi nhủi về phía trước, may có Tùng Trung sĩ đưa tay chặn lại, lấy
được thăng bằng, cúi đầu chào:
- Tâm, xin chào quý anh, chị thân
thương, mọi người trên đường đi có suôn sẻ không?
Linh Ái Cầu Muối nói:
- Đương nhiên thuận dòng, xuôi
gió mới đến đây, kẻ gửi chồng con cho làng, người gửi vợ cho đàn xóm, chỉ vì
tin biên giới có mặt Tâm tại "Dòng nhà làng" thế là mọi nguời bỏ hết
việc, không cần trang điểm, lập tức đi như bay.
Đồn bót biên phòng của Trung Quốc trên khu vực sông Nậm Ma
Vinh Cút kít liền nói:
- Các bạn nói thế để thằng Tâm nó
an lòng, thực ra Tâm đã hiểu hết, lý do Tâm với anh Minh hết bốn ngày trôi giạt
tận mãi hướng Tây biên giới để viếng thăm người nhà. Quý ông, bà nếu tiện miệng
cho Tâm biết về thiên đường cực lạc biên giới là cái gì nhá?
Đào xích lô nói:
- Tâm cứ hình dung Điện-các của
anh Minh là biết thiên đường xa, địa ngục biên giới gần, tại hạ đã chọn đường
địa ngục cho an phận!
Mỹ Châu hộ sản cười, nói đùa:
- Hì hì...ai kia, thân nam nhi mà
ý chí hạ nữ, biên giới này không thể là nơi an nhàn thủ phận, dù Thượng Đế có
cho tôi cai quản cõi này, tôi liền xin từ chối, bởi cảnh tiên này muôn ngàn não
ruột, chỉ có hôm nay mới thấy niềm vui đến với mình. Cảm ơn Tâm! Quả thực thèm
cái vui này từ lâu, một thời chúng ta tung hoành trên quê hương, và tôi đã nói
quá nhiều lần, khuyên mọi người hãy hạ giới càng sớm càng tốt, đừng ôm thân
phận bi quan, hỡi quý ông thần hãy lạc quan lên đi chứ?
Tùng Trung sĩ nheo mặt nói:
- Thấy không, Châu hộ sản, lúc nào cũng thôi
thúc người khác, còn mình lì lợm, lúc mới vượt biên giới thì ôm thằng chồng,
đến nay ôm bốn đứa con, nến thời bình thì họ ôm một lúc tám đứa con là ít.
Chị Trang nghiêm nghị nói:
- Riêng tôi, đã bí lối rồi không còn sức để hạ
giới (bỏ làng) vì quá thất vọng.
Chị Trang oà lên khóc, tiếp theo Mỹ Châu hộ
sản, Linh Ái Cầu Muối, Thảo Liên Dược đồng khóc.
La Minh từ dưới bếp đi lên thấy bốn cọp cái
khóc, liền la:
- Này nữ tứ-quái, ở đây không phải là hý viện,
từ bé đến giờ mỗi khi nói đến địa ngục là tứ quái khóc. Thôi được rồi! Hãy
buông màn khóc xuống, đi vào bếp lo nấu nướng cho hợp khẩu vị thì Tâm sẽ cho
biết nhiều tin vui.
Đúng 10 giờ, tiếng nói của chị Trang từ dưới
bếp vọng lên:
- Cậu Minh, tất cả đã chuẩn bị đủ lễ vật, nào
là "Tam sinh" hương, hoa, trà, quả vậy khởi hành thăm mộ chị Tú Hà và
các cháu chưa?
- Thưa chị, đúng 10 giờ 30 phút khởi hành, các
bạn nhớ tuy là hình thức nhưng phải có bài bản như thực, đừng để người ngoài
biết bên trong chúng mình lấy cớ hợp mặt nhé ?
Đúng 10 giờ 30 phút, ông chủ "Dòng nhà
làng" họ Hứa tên Bông Linh nguyên Đại úy MTGPMN, nay ông làm chủ "Âu
nhà làng", họ Phó tên Như Bá, nguyên Trung úy MTGPMN, đến tham dự ngày giỗ
chị Tú Hà, họ đến bằng tấm lòng thân thiết do anh Minh mời. Họ đem theo hoa,
một chai rượu trắng và hai con gà luộc, họ xem bạn của anh Minh như anh em với
họ. Họ ngưỡng mộ tính năng động và những hoạt động vì người, sống vô tư dù có
lúc bên ngoài đe dọa đến bản thân. Chính vì thế họ đến với nhau không ngại mọi
điều, khi có dịp ngồi lại họ trải bày tâm sự không tiếc lời. Ngược lại anh em
chúng tôi cũng xem Đại úy đỏ Hứa Bông Linh vá Trung úy đỏ Phó Như Bá cùng đồng
người Việt, chia sẻ chân thực, thể hiện bằng tình người nặng nghĩa đồng hương.
Sau khi làm giỗ cho ba mẹ con chị Tú Hà, tất cả
về nhà anh Minh dùng cơm trưa, trong lúc dùng cơm, mọi người nói rất nhiều vấn
đề, sinh hoạt làng này làng kia, phiền nhất không liên lạc được thế gới bên
ngoài làng, tất cả đời sống ở trong làng đều tự túc. Đặc biệt nói về những người
tị nạn mất tích, bị trấn lột, chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc, bởi
mọi người hiên diện hôm nay, nguyên chứng nhân bất đắc dĩ kẹt trong hai họng
súng!
Tôi chú ý nhất, lúc họ viện dẫn Trung Quốc chủ
động chiến tranh, đưa đến trói buộc người Việt tị nạn làm thân trâu bò, trên
lưng làm ngựa thồ, tải đạn vào chiến trường, lao động đào giao thông hào khoán
chỉ tiêu, làm vòng đai đại pháo, lập bẫy mìn cài, mìn đặt dọc theo biên giới,
nhiều người lao động quá sức phải bỏ mạng vì đói rét, bệnh tật.
Ngày nay trong ký ức người Việt tị nạn còn đó
những vết hằng sâu, diễn biến từng giờ, khi suy nghĩ đến tự rùng mình, khổ đau
thấu xương, trong lòng bàn tay vẫn từng ấy dấu vết lao động chiến truờng chưa
phai.
Anh, chị, em còn cho biết: Lúc trước những làng
tị nạn ở vị trí cao nhìn về hướng Nam thấy chiến tranh như mồn một. Những
ai là cựu quân nhân, từng kinh nghiệm chiến trường như anh Hứa Bông Linh, Phó
Như Bá, Vinh cút kít, Tùng Trung sĩ đều định vị được chiến lược và vẽ được bản
đồ tiến quân của liên quân Trung Quốc tiến vào lãnh thỏ Việt Nam. Họ chiếm một
phần lãnh thổ biên giới Việt Nam, cuối cùng họ chỉ trích cả hai đảng CSVN và TQ
về mặt chiến tranh, thi nhau tàn sát người dân Việt Nam.
Vốn tôi có ít nhiều hệ lụy với người Việt tị
nạn tại biên giới Trung Quốc, trước đây khi chưa đến đây đã nghe người ta nói
nhiều về mảnh đời biên giới lắm lao đao, tôi khó tin lời nói của họ đôi khi còn
hồ nghi vì tôi cũng là một tị nạn tại Galang Indonesia . Mãi đến nay có dịp đứng tại biên
giới Việt-Trung mới nghe được chuyện người thực, việc thực của nhiều chứng
nhân. Đích thực lời nói của những chứng nhân này làm tôi choáng váng, họ nói
bằng lương tâm hoàn toàn giá trị, không phiến diện và không tùy theo cảm tính.
Từ những cựu quân nhân một thời đi theo MTGPMN, và cả cộng đồng người Việt tị
nạn đồng xác nhận những đoạn đời tị nạn ở biên giới, chỉ sống hay chết cách
nhau 1 cm tây trên đầu, dưới chân cách đất 1 cm.
Tôi không thể nào chở hết những lời chứng nhân
cùng một lúc vào lòng, tôi tự trở thành kẻ say xẩm mặt mày trước cảnh bi thương
của họ, chỉ ghi nhận những sự kiện đau đớn nhất trên phần đất của tổ quốc Việt
Nam bị Trung Quốc chiếm lấy mà không nghe một tiếng la làng nào từ phía nhà
nước Việt Nam. Đầu óc hồ nghi nhà nước Việt Nam âm thầm ký kết trao tặng biên giới
Việt Nam cho Trung Quốc, đến nay (1978) nhân dân Việt Nam và thế giới không hay
biết gì về vị trí biên giới của Việt Nam - Trung Quốc ở tọa độ, vĩ tuyến nào!
Lòng ngậm ngùi, buồn cho thế sự quê hương, đến
độ tôi không còn chịu đựng được phải đè ép, nén lòng xuống thật sâu không cho
cảm xúc lệ tràn, hầu lắng động lại tâm hồn để còn đi tiếp trên đường dài biên
giới, và thu thập đời sống thực một cộng đồng tại biên giới không giống đời
thường hay ở cõi hành tinh nào đó chưa ai khám phá. Một đặc thù khác, tôi rất
thán phục ở cộng đồng này, họ lấy quyết định đồng thuận, hòa giải giữa người
Hoa Đỏ, Hoa Vàng, Việt ăn theo máu Hoa, người Việt biên giới và người Việt sắc
tộc, đồng chung sống với nhau. Họ còn đồng thuận hòa hợp trên nhiều mặt, sinh
hoạt đời sống cộng đồng theo văn hóa Việt, điểm chung đời tị nạn không xa rời
văn hóa chào đời và tiếp tục lưu truyền nơi sinh cư.
Họ đã hòa hợp được và thành công, trách nhiệm
của cộng đồng họ chia nhau trong cuộc sống, nhất là bảo vệ an ninh, đương nhiên
Hoa Đỏ có nhiều kinh nghiệm. Trước 1975, đảng CSVN lừa đảo chính trị và chưa
bao giờ lương thiện đối với mục tiêu họ muốn đạt được, buộc họ thực hiện theo
mệnh lệnh để vươn lên bằng những thứ trao đổi quân hàm Đại úy, Trung úy v.v...
Sau khi ảo vọng bị té ngã, mới thấy mình đu trên dây cuộc đời để chúng lừa gạt,
nhất là ở tuổi thanh xuân bị chúng lấy hết nhiệt huyết. Hôm nay Hứa Bông Linh,
Phó Như Bá lấy kinh nghiệm có được, đối phó với đời thường trước đảng CSTQ, hầu
đem lại sinh tồn cho cộng đồng. Còn về tổ chức cộng đồng các bạn của tôi trội
hơn, bởi tất cả trước đây là Hướng Đạo sinh, biết tổ chức, ứng dụng mọi việc
vào tình huấn, và cũng là thành viên phong trào Du-Ca VN, ngoài ra họ còn có
biệt tài tác động xã hội, sống vui khoẻ. Những anh, chị, em ấy đều có vốn chuyên
môn trong xã hội miền Nam Việt Nam trước 1975. Ngoài ra cũng có vài
cựu quân nhân VNCH như Vinh cút-kít, kỷ sư Phú Thọ, nguyên là Trung úy Biệt
kích và Tùng Thiếu úy Biệt Động Quân "sau 1975 chúng tôi đùa, giáng chức
của Tùng thành binh nhì, đến năm 1976 chúng tôi đề nghị truy tặng chức Trung
sĩ". Đặc biệt Vinh từ khi di chuyển về "Âu nhà làng" mới có biệt
hiệu Cút-kít, nguyên là tác giả các loại xe "Cút kít biên giới", như
xe chở đất làm nhà, xe chở cây Bạch Đàn, Bồ Đề, Cao su và tải bệnh nhân, trước
kia không có xe Cút kít dân làng đem thân đổi sức nặng để lấy từng hạt gạo nuôi
mạng sống. Cho nên người làng gọi anh Minh và Vinh với cái tên thân thiết
"huynh đệ làng".
Xe cút-kít rất hữu dụng, khi các em bé dùng làm phương tiện
rong chơi
Dòng nhà làng và Âu nhà làng tự
tạo ra nhiều tiện nghi cho cuộc sống cộng đồng, xe Cút-kít là một ví dụ. Về
giáo dục có anh Minh và chị Tú Hà đôi họa sĩ qua màu sắc pha đậm trữ tình,
nhưng khi đến đây anh có thêm biệt tài chuyên hành chính, như làm các loại đơn
cho đồng bào, giúp "Dòng nhà làng" và "Âu nhà làng" tổ chức
các lớp học tiếng Việt cho trẻ em và ngưới Việt sắc tộc, còn chị Tú Hà phụ
trách lớp toán cho trẻ em và người Sắc tộc, từ đó hai làng có một bản sắc tị
nạn riêng của nó.
Hôm trước anh Minh kể về chuyện
lớp toán của chị Tú Hà: "Một hôm Hà về nhà tủm tỉm cười có vẻ đắc ý, Hà
nói: Minh thử nghĩ xem, khi chúng mình tiếp cận đồng hương Việt sắc tộc, họ
không biết đọc và viết, thế mà hôm nay đồng hương đã biết đọc-viết như chúng
mình, ngoài ra họ còn biết làm bốn toán pháp cộng, trừ, nhơn, chia, toàn thể
đồng hương đã đếm được con số triệu. Hà nói đùa tương lại quý bạn sẽ có ngần ấy
tiền, mọi người đồng vỗ tay cười, và đồng nói lớn tiếng "hy vọng".
Rất tiếc chị Tú Hà qua đời sớm,
chị mới ba mươi bốn tuổi, vướng bệnh dịch tả trong làng, chị bị mắc bệnh do
lòng nhân ái, hy sinh vì mọi người, mỗi ngày chị làm vệ sinh cho bệnh nhân và
tẩy uế thi thể trước khi đưa ra nghĩa trang, đến ngày thứ mười bốn chị và hai
cháu vướng vào dịch tả, lên cơn sốt hai ngày cả ba mẹ con tiếp nối qua đời,
ngày trước ngày sau, thế là gia đình anh Minh có trong danh sách 1.526 người
chết vì dịch tả.
Cùng lúc anh Minh đề nghị tiêu
hủy làng. Vận động cách ly người chưa bệnh ra khỏi làng ở tạm những chòi tranh
mới dựng lên, những vật dụng đun lại bằng nước sôi v.v... Dòng nhà làng, trải
qua một thiệt hại khủng khiếp. Hơn hai năm trước, khi dịch tả xuất hiện ở làng
này, chính quyền địa phương không hề đoái hoài đến người Việt tị nạn tại biên
giới, từ đó dân làng oán thù những chế độ CS còn hơn hận địch tả.
Có đến nơi mới nhận diện được đời
sống thực của dân mình quá gian truân, và hiểu được thế nào là cộng đồng người
Việt tị nạn tại biên giới VN-TQ. Tôi cảm kích họ về mọi mặt sống. Ngày nay sinh
họat của cộng đồng "Dòng nhà làng" và "Âu nhà làng" đã thay
đổi nhiều, họ dự trù vào tháng 10/1987 mở một chợ phiên tại giao lộ gần thị
trấn để giao lưu thế giới bên ngoài và cải thiện đời sống bên trong làng. Họ
dùng trí tuệ sáng tạo và bảo vệ đời sống cho nhau. Rất tiếc tôi chưa viếng thăm
những làng biên giới khác. Tuy nhiên cũng biết đại khái tình trạng những làng
như nơi định cư của Đào xích lô, Tùng Trung sĩ, Mỹ Châu hộ sản, Linh Ái Cầu
Muối, Thảo Liên Dược, chị Trang Đao Khoa.
Được biết những làng của quý bạn
của tôi vướng ít nhiều vấn đề an ninh, cho nên việc tổ chức cộng đồng chưa theo
kịp mẫu "Dòng nhà làng" và "Âu nhà làng".
Tôi ngồi gần ông chủ làng
"Dòng nhà làng" và "Âu nhà làng", lúc này mạnh miệng gọi
bằng anh cho thân mật hơn và chủ ý tạo tình cảm càng nhiều càng tốt, tôi hỏi:
- Thưa quý anh, tôi mới đi qua
một vòng hẹp biên giới Vân Nam Trung Quốc, đã hình dung được một số dữ kiện về
cộng đồng người Việt tị nạn sống tại biên giới từ 12 năm qua (1975-1987). Sau
1975 đảng CSVN bài Hoa gọi họ là người Việt có máu Hoa. Việt Nam từ chối không
cho họ đất sống. Họ phải ra đi đúng lúc hai đảng CSVN và TQ chiến tranh ngày
17/2/1979 tại biên giới, biến họ thành người Việt tị nạn, một cụm từ chua chát,
và Trung Quốc chính thức từ chối họ lần thứ hai. Từ đó họ thường hỏi: "Tại
sao không phải là người Việt hay người Hoa".
Lương tâm nào phán xét lành dữ
cho công minh, đảng CSVN có phần trách nhiệm. Bởi sự hồ đồ nhất thời bài Hoa,
sau khi cộng đồng này vào Trung Quốc, họ càng bị phân biệt đối xử. Chính quyền
Việt Nam chỉ cần nhận họ một tiếng người Việt để quyết định số phận của họ. Hai
đảng CSVN-TQ chưa hề có luơng tâm đối xử đẹp với cộng đồng này. Tôi nói như thế
có phiến diện không?
Anh Hứa Bông Linh liền đáp:
- Bạn nói như thế còn nhẹ như bấc
cho hai đảng CSVN-TQ, đối với chúng tôi thường khi nói đến vấn đề này là nổi
lên gay gắt và phải mạt sát hai đảng CSVN-TQ, không nương tay, bởi chế độ CS nó
không xót xa cho ai cả, khi cần thì nó tìm đủ mọi cách thuyết phục, khi hết cần
nó thải ra như nước ống cống! Tôi muốn bạn nhận diện một cách trung thực hơn về
cộng đồng người Việt tị nạn tại biên giới này, đó là nguyên nhân tôi xin phân
tích một cách khái quát trong cộng đồng hòa hợp từ năm nhóm người, nay thành
một:
• Nhóm thứ nhất, Hoa Đỏ thân Lục
Địa (Mao), trước đây họ đã sống miền Bắc Việt Nam trên 12.500 người.
• Nhóm thứ hai, xuất hiện trên
123.000 người Hoa, trước năm 1940-1950 tại miền Nam Việt Nam, như "Hoa
Vàng thân Đài Loan" và "Hoa Đỏ thân Mao" chung sống với người
Hoa thuần Việt Nam tại Chợ Lớn, Sài Gòn và các tỉnh miền Nam Việt Nam, trải qua
năm thập niên, số người Hoa này tăng nhanh lên đến hơn 450.000 người.
• Nhóm thứ ba, người Hoa vào thời
Chúa Nguyễn đã hòa nhập vào xã hội Việt Nam, cách nay hơn ba bốn thế kỷ, họ
không còn bận tâm đến gốc Hoa. Sau 1975 dưới mắt đảng CSVN vẫn cho rằng họ có
máu Hoa, từ đó quả nhiên một hệ lụy nghịch cảnh đến với họ, thế là bị bài Hoa,
bị tống khứ về Trung Quốc. Tuy nhiên thành phần này đi không đáng kể, vì họ
không còn thân nhân ở Trung Quốc, cho nên nhiều người chọn vượt biên đường biển
Đông.
• Nhóm thứ tư, người Việt Nam ăn
theo máu Hoa, số người này rất ít, họ có ý định mượn đường Trung Quốc đi nước
thứ ba, cũng như người Hoa Vàng tìm đường về Đài Loan vì ở đó có người thân.
• Nhóm thứ năm, người Việt sống
biên giới, và người Việt sắc tộc cao nguyên Bắc Việt Nam, đối diện Bắc phần
tỉnh Vân Nam và Quảng Tây.
Hoa Vàng, Hoa Đỏ, Hoa thuần Việt,
Việt ăn theo máu Hoa, Việt biên giới và Việt sắc tộc biên giới, 5 nhóm hiện
diện ngẫu nhiên trở thành cộng đồng tị nạn tai biên giới Việt Nam –Trung Quốc,
được nhà nước Trung Quốc công nhận một tên chung (người Việt tị nạn) tổng số
hơn một triệu người.
Anh Hứa Bông Linh cho tôi những
con số và cách sống riêng của cộng đồng tị nạn, cho thấy những điểm này sẽ có
sự tác hại của nó trong tương lai, nếu hai đảng CSVN-TQ cố tình tạo ra một áp
lực chính trị hay quân sự nào đó.
Lần đầu tiên chúng tôi tiếp cận
được cộng đồng tị nạn biên giới phía Nam, Vân Nam Trung Quốc, hiểu được người
Việt tị nạn đã chịu đựng những năm tháng dài thống khổ và cùng cực nhất thế
gian, đời họ bị biệt lập, sống và chết không liên hệ với thế giới bên ngoài.
Tất cả người Việt gốc Hoa về lại
cố quốc, hay người không Hoa nói chung, đều phải chịu nghịch cảnh trên danh
nghĩa (người Việt tị nạn). Từ lúc đảng CSVN bài Hoa và tống khứ dồn dập người
Việt gốc Hoa về bên kia biên giới Trung Quốc.
Nhà nước Trung Quốc liền tập
trung họ vào những trại gọi là tiếp cư, hứa: "Sẽ chuyển người tị nạn đến
nơi định cư nhanh và an toàn".
Tin vui đến, nhất là người Hoa
vàng v.v... suy nghĩ đơn thuần, đây là chặng đường quá cảnh để ngày mai về đất
lành Đài Loan hay Hong Kong, còn người Hoa đỏ giản dị hơn, mai này sống an nhàn
trên quê hương, xứ sở.
Trong lúc tranh tối tranh sáng,
người tị nạn nào ai có hiểu thấu những tuyên bố trên chỉ là nghệ thuật tiếp tục
trấn lột tài sản trên lưng của người tị nạn đang lao tới. Người tị nạn bao giờ
cũng có một viễn tượng hạnh phúc phía trước nhưng không bao giờ đi tới bởi vì
CS cản trở ước vọng của loài người.
Một hứa hẹn của nhà nước Trung
Quốc, tạo cho cộng đồng người Việt gốc Hoa một lòng tin, thế là tiếng đồn bay
xa dòng chảy tị nạn đường bộ, ngày càng mạnh mẽ hơn, cuối năm 1978 và đầu năm
1979 tại biên giới tăng thêm con số 300.000 người, chưa kể người tị nạn đi bằng
ghe thuyền tại vịnh Bắc bộ thuộc tỉnh Quảng Ninh Việt Nam, họ đến thẳng Quảng
Châu và đảo Hải Nam Trung Quốc.
Anh Hứa Bông Linh cho biết thêm:
- Ngày 19/2/1979 chiến tranh thực sự bùng nổ,
đạn pháo ào ào, trải thảm đỏ máu, lửa đạn hừng hực cháy khắp biên giới, biển
người bộ đội Trung Quốc cứ thế mà dâng lên từng đợt sóng. Còn dân quân Việt Nam tại biên giới, họ kiên trì chống
địch, đến nỗi không còn sức để giữ xóm làng, cuối cùng đa số bị tử thương và
một số ít bắt làm tù binh. Người dân chạy bỏ tài sản chỉ ước nguyện giữ được
thân, họ chạy không định hướng, kẻ về hướng Bắc, người chạy hướng Nam, khi nghe
tiếng đạn pháo đâm đầu chạy ngược, đưa đến tình trạng dân quân ta và thù cùng
chết trên một dòng sông Hồng.
Người tị nạn Việt gốc Hoa chết bên bề sông Hồng, cũng ở trên
dòng sông Hồng này. Dân quân VN và kẻ thù TQ cùng một cách chết. Nguồn: Trương
Hoán Tùng.
Đến ngày 22 tháng 2 năm 1979. Bộ
quốc phòng Trung Quốc truyền lệnh cho Lữ đoàn 119 bộ binh, tung ra trung đoàn
6, tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, chiến thuật 6 lớp quân "biển
người", chiếm từng làng và huyện lỵ. Tiếp theo lực lượng quân nhu Trung
Quốc thực hiện chiến lịch làm sạch 300.000 người Việt gốc Hoa mới qua biên giới
trước đó vài hôm, biến thành một xung đột dã man về tâm lý, từ đây biến người
Việt gốc Hoa thành kiếp "người Việt tị nạn" dù Hoa Đỏ hay Hoa Vàng
cũng không còn giấc mơ trở về cố thổ để làm công dân Lục địa hay Đài loan. Cùng
lúc Đặng Tiểu Bình trên cương vị Tướng-Soái lên đài truyền hình 3 lần nguyền
rủa, công kích gắt gao, kèm theo nhiều lời đe dọa Việt Nam, Đặng Tiểu Bình còn
khuyết khích: "người Việt tị nạn có quyền tham gia chống đảng CSVN".
Người dân Trung Quốc xem họ Đặng là kẻ háo hức tạo ra chiến tranh biên giới,
chính họ Đặng không trung thực lời nói "Tự Vệ".
Cùng ngày Lữ đoàn 119 bộ binh của
Trung Quốc, cho bọc lên hướng Tây nơi tập trung người Việt tị nạn đông nhất,
nhiệm vụ tiến hành làm sạch "trấn lột" 300.000 người Việt tị nạn tại
sáu đoạn sông Nậm Ma.
Tiến hành trấn lột sạch, chiến lợi phảm trên lưng người Việt
gốc Hoa, tại 6 đoạn sông Nậm Ma, nơi tập trung người Việt tị nạn đông nhất. Bản
đồ: Hứa Bông Linh.
Những chứng nhân Hoa đỏ, như
Trương Hoán Tùng, Hứa Bông Linh, Phó Như Bá, Kưu Thiên Tài, Mã Anh Thu, Quách
Tình, Hứa Hữu Nhật.
Tám người Hoa vàng, như La Minh,
Liu Linh Ái, Mạc Đình Độ, Liu Ngô, Khương Thân Gia, Gang Khang Lộc, Lã Mạnh
Cát.
Sáu người Việt ăn theo máu Hoa,
như Cao Dũng, Lê Văn Đào, Nguyễn Thanh Tùng, Trần Thị Mỹ Châu, Nguyễn Thảo
Liên, Trần Thị Trang đồng cho biết:
"Họ lùa 300.000 người tị nạn
vào thung lũng khu vực vùng núi cao 91, ở đây không một ai chạy trốn khỏi, họ
kiểm soát các điểm ra vào, chặn đường nếu có cuộc tấn công từ phía Việt Nam.
Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 7 của Trung Quốc được lệnh tiêu diệt người Việt tị
nạn, và mở đường xuống Nam, theo tiến quân chiều dài như đã ấn định cho cánh B.
6 cánh quân khác tiến sâu vào đường 75 Tây Nguyên, điểm hẹn lạch Đông Bắc,
chiếm lấy đồng bằng núi cao 91 làm hành lang chiến lược phòng ngự. Một làng Tây
Nguyên nằm ở phía Tây núi 91 của Quốc Lộ 7 gần sông, có sáu (6) nhóm người Việt
tị nạn làm trở ngại cánh tiến quân, thế là bị tiêu diệt trước để bảo vệ cánh
quân thông suốt không bị lộ, thậm chí làm cho hai đường dẫn dài 8 lớp bọc vào
điểm A. Sau đó không ai biết 300.000 người tị nạn âm thầm, bí mật mất dấu, và
sáu nhóm người tị nạn đang ở đâu? Không ai biết số phận của họ và tài sản trên
lương người tị nạn đi về đâu? Ai là người chủ mưu ăn cướp trong lúc chiến
trường tại biên giới Việt Nam-Trung Quốc tiếng đạn pháo sôi bung, cho đến hôm
nay (1987) chưa có hồi đáp".
Người dân vượt qua sông Hồng tại biên giới Việt-Trung.
Nguồn: Trương Hoán Tùng
Theo lời của một phế binh Gu
Kemei, nguyên cựu chiến binh sĩ quan tham chiến ngày 23/02/1979 hiện cư ngụ tại
thủ phủ Côn Minh cho biết: "Lúc 12:20 giờ, tôi dẫn đầu một đại đội tăng
viện cho Sư đoàn trưởng Yin-Pei, sau đó tất cả trải rộng 6 lớp tăng cường thêm
hai khẩu đại pháo, từ vùng cao nguyên phía Đông Bắc gần với sông 75. Một lớp
quân khác được chia thành ba nhóm thay nhau qua sông. Tới trung tâm của sông,
đột nhiên tìm thấy kẻ thù (VN) phía trước bên phải, giết chết sạch kẻ thù,
không chần chờ, nhanh nắm bắt các sườn núi bên kia sông, đã có 2 nhóm làm phòng
ngự trên sông để nối lại tiến quân.
Một đại đội khác vào làng phía
Nam tìm được liên lạc lãnh đạo trung đội trinh sát và lãnh đạo đội hình, biết
mọi chi tiết địa hình chung quanh làng. Lãnh đạo quyết định để lại một nhóm
phòng bị nếu có đột biến bên phải. Cho đại pháo chụp xuống đầu quân đội Việt
Nam, súng máy liên thanh từ trái tiến lên, tôi dẫn 3 nhóm đi đầu cùng với trung
đội trưởng, thay thế vào chỗ phòng ngự bằng ba đại đội (13, 10 và 3) để vượt
sông. Tìm kiếm các vị trí pháo binh của đối phương, liền chạm mặt chiến trường,
cách bản làng 50 mét, do sư đoàn trưởng Yin-Pei chỉ đạo, cho một nhóm binh sĩ
chiếm địa hình thuận lợi nhất, có bóng mát che khuất để tiến gần kẻ thù, 16
súng trường của nhóm Mengsao tấn công, lấy được tám mạng sống kẻ thù, thu giữ 7
khẩu súng trường bán tự động và súng lục. Đột nhiên phát hiện, có một kẻ thù từ
bụi cây rậm gần chúng tôi, chạy vào hầm trú ẩn trong một gốc cổ thụ, thế là
chúng tôi giết sạch, khi kéo xác ra ngoài hơn 152 người, mới biết thường dân,
trên lương vẫn còn ba-lô đầy ấp đô-la, không sai chính họ là người Việt tị
nạn".
Trước và sau chiến tranh ông Đặng
Tiểu Bình thường chửi bới Việt Nam sợ ngớ ngẩn, toàn là những thằng khờ, một
chư hầu mất dạy v.v... Thế nhưng khi tôi được báo cáo, số liệu sơ khởi tổn thất
của quân đội Trung Quốc tại chiến trường Việt Nam:
Tử trận: 26.000 người
Bị thương: 37.000 người
Quân dụng: 260
Xe tăng đã bị phá hủy: 282 chiếc
Các xe bị phá hủy: 490 chiếc
Mất các loại pháo: 670
Súng máy liên thanh mất: 3100.
Cho đến nay tôi không biết thêm
chi tiết nào về cuộc chiến này!
Ngựa thồ 4 ngày chưa tải hết tài sản của người Việt gốc Hoa.
Nguồn: Trương Hoán Tùng
Anh Hứa Bông Linh cho biết tiếp:
- Trong khi ấy có một bí ẩn khác,
họ loan tin chuyển 300.000 người Việt tị nạn đến làng Maguan Vân Nam Trung
Quốc, tôi khả nghi một chút khác thường đối với thế giới tị nạn, tuy rằng biết
mà cố im lặng, bởi số người trên không phải đến từ thung lũng khu vực vùng núi
cao 91, chẳng qua đây là tráo trở trừ hậu chiến tranh.
Một tráo trở khác, Trung Quốc
khởi động chiến tranh, tạo Đông Dương nóng, lấy Việt Nam làm thí điểm, trước đó
một năm Trung Quốc tổ chức kiên cố xây "thành lũy thép" biên giới,
ngoài ra Trung Quốc còn thành lập thêm các binh đoàn Pắc Bó. Cùng với các lực
lượng chủ lực dân-quân gồm người thiểu số địa phương, tổng số lực lượng phòng
thủ biên giới Việt-Hoa lên tới 600.000 người. Ðồng thời, họ cũng duyệt xét lại
chiến lược và chiến thuật phòng thủ, chia Ðông Dương thành những mặt trận, như
mặt trận A dọc theo biên giới Việt-Hoa, mặt trận B dọc duyên hải Bắc-Việt, mặt
trận L ở Lào, và mặt trận K từ Căm Pu Chia tiến qua hướng Cao nguyên Việt Nam.
Theo báo cáo Trung Quốc, ấn định
chiến tranh từ tháng 4/1978 đến tháng 6/1979, tại tỉnh Vân Nam, đến khu tự trị
Choang Quảng Tây, Bằng Tường và dòng người tị nạn Đông Hưng cảng Việt Nam sẽ là
nội lực ứng chiến. Nhưng không biết lý do nào ngày 17/02/1979 cuộc chiến Đông
Dương lần thứ ba đến sớm hơn dự định ngoài kế hoạch chiến tranh của họ Đặng.
Phó Như Bá nói thêm:
- Các bạn biết không, có một báo
cáo khác của chính phủ Trung Quốc về người tị nạn:
Năm 1977-1987 tất cả người tị nạn Châu Á cư trú tại Trung Quốc, tổng số 26.500.000 người, phân bố ở Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, Phúc Kiến, Giang Tây, sáu tỉnh (khu vực) và 196 đơn vị giải quyết, người tị nạn gồm co sắc tộc Karen, Shan đến từ Miến Điện, Hồi, Ân, Bắc Hàn v.v... Đông Dương có Căm Pu Chia, Lào và riêng người Việt chiếm 70% tị nạn.
Theo thông lệ UNHCR, người tị nạn
nói chung được đặt trong trại tị nạn chuyên dụng và theo quy ước UNHCR, những
người tị nạn được phép xin tị nạn ở các quốc gia thứ ba, mà họ có ước định đến.
Thế nhưng chính phủ Trung Quốc áp dụng chính sách riêng ngược lại quy ước
UNHCR, không cho người tị nạn định cư theo quy ước quốc gia thứ ba, và không
đưa người tị nạn hội nhập xã hội.
Trung Quốc viện dẫn, "Người
Đông Dương gốc Hoa hồi tịch, với tư cách tị nạn tạm cư trú tại biên giới của
đất nước họ, hợp với điều kiện khí hậu, địa lý, ngôn ngữ, phong tục và tính
nguyên gốc của công việc có liên quan". Thực chất Trung Quốc áp đặt người
tị nạn phải sống theo sắp xếp của chế độ CSTQ.
Nói khác hơn, hầu hết người Việt
tị nạn sống tại các làng của nhà nước CS Trung Quốc đã ấn định, đem thân làm
cày trên bưng ruộng bậc thang. Lâm nghiệp cạo mủ Cao su, trồng cây Bạch đàn, Bồ
đế v.v... Ngư nghiệp nuôi trồng thủy sản tại các hồ nước cao nguyên. Tất cả mọi
người ở đây sống theo biên chế hội nhập nô lệ .
Hứa Bông Linh nói tiếp:
- Nói và hành động của CS Trung Quốc hoàn toàn
trái ngược với người có lương tâm, chính quyền Trung Quốc đứng trước UNHCR
tuyên bố: "người Việt gốc Hoa trở về nguồn dân tộc, văn hoá, gia tộc và
Trung Quốc đã ít nhiều liên kết". Thế nhưng, người Việt tị nạn chưa bao
giờ được hưởng quyền tị nạn, chưa nói đến quyền của một công dân Trung Quốc.
Cuộc đời của chúng ta bị đảng CSVN bài Hoa, rồi đến đảng CSTQ từ chối gốc tịch
Hoa!
Do đó đại đa số người Việt tị nạn hay có máu
Hoa không có ý định chọn lựa đời sống mãi trên đất Trung Quốc, tất cả là nạn
nhân của hai đảng CS, đang sống biệt lập về ý thức dân tộc từ lúc làm thân tị
nạn (1979-1987). Cộng đồng người Việt tị nạn không thừa nhận "mô hình nhân
đạo" theo kiểu Trung Quốc, nói đứng hơn là chúng ta đang sống dưới một chế
đệ phong kiến theo kiểu Khổng Tử Trung Quốc, không riêng gì chúng ta, ngay cả
người dân Trung Quốc cũng làm nô lệ đời đời cho đảng CSTQ.
Nhìn chung, năm 1979 làn sóng nguời Việt gốc
Hoa đến Trung Quốc, được chính phủ Trung Quốc công nhận "tị nạn", hầu
hết người Việt tị nạn sống ở Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Châu, trong các ngôi
làng biên giới và các trang trại. Cho đến nay danh tính của người Việt tị nạn
chưa được giải quyết, người Việt tị nạn sống theo hai hình thức tập trung và
phân cấp theo địa lý đặc biệt.
Nào ai biết khi làn sóng lớn bài Hoa, buộc phải
rời khỏi Việt Nam đến tỉnh Vân Nam vào năm 1977 ... Tính cho đến nay (1987)
tỉnh Vân Nam nhận tổng cộng 6.410.000 người tị nạn Châu Á, và người tị nạn Đông
Dương đến Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Châu hơn 4,5 triệu người, họ sống theo 9
khu vực biên giới của 15 quận và 24 nông trường.
Tôi không ngờ những người Hoa đỏ, thẳng thắn
luận về chế độ Trung Quốc, dù ngồi nghe mãi vẫn có cảm giác thú vị, không chán.
Để ý thấy hai anh Hứa Bông Linh và Phó Như Bá hút thuốc rê cuốn bằng tay, hút
liên miên vừa bỏ xuống điếu thuốc này, tức thì tay se điếu khác, anh Hứa Bông
Linh vỗ vai anh Phó Như Bá nói:
- Thời gian qua mau đã xế chiều, chúng mình về
để anh, chị, em họ nói chuyện riêng, nào Bá về nhà tao?
Tôi vội đứng lên và nói:
- Quý anh chờ em một chặp rồi hãy về.
Tôi chạy vào nhà trong lấy hai cây thuốc lá
555, tặng quà cho hai anh Hứa Bông Linh và Phó Như Bá, anh Linh cũng không ngờ
trước chuyện tặng quà đột ngột nói:
- Đa tạ chú em, ở rừng mà hút được ba con số 5
quả nhiên là tiên hạ giới.
Anh Phó Như Bá cười nói:
- Anh Linh, "hạ giới" là tiếng
"lóng" bỏ làng đi sống nơi khác, chẳng nhẻ anh cũng có ý này à? Trước
khi bỏ làng phải có thẻ nhận diện ID, sau đó có tiền và phương tiện sống, nếu
hạ giới khơi khơi, trước sau gì cũng phải về lại làng và tiếp tục sống ở cõi
thiên đường này thôi! chuyện này không nói anh cũng phải biết, xin anh đừng
giỡn bóng "hạ giới".
- Thế thì, mày nghĩ sao cũng được, tao đếch cần
cái làng này, sao mày có muốn hạ giới với tao không? Tất cả anh, chị, em hãy
chuẩn bị hạ giới nhé?
Tất cả mọi người đồng ồ lên cười, anh La Minh
đáp:
- Thưa quý anh, chúng em cũng muốn hạ giới lắm,
nhưng mà không có phương tiện, nếu hạ giới ẩu, hóa ra mình tự vào tù sẽ bị cô
lập trong rừng sâu hoang vắng, nếu anh Linh thấy nơi nào hạ giới tốt thì đừng
quên chúng em nhé?
- Đương nhiên, được rồi đến đó sẽ hay, thôi
chúng tôi về, một lần nữa cảm ơn chú em tặng quà phì phà rất có ý nghĩa. Chú em
nhớ lần sau gặp lại hai cây thuốc đó nhé? Nếu không có thì chúng tôi đuổi chú
em ra khỏi làng.
- Dạ, em vâng lời quý anh ạ.
Cả hai anh Hứa Bông Linh và Phó Như Bá đã kiếu
từ, còn lại không gian của anh, chị, em chúng tôi, lúc này tôi mở ra một ba-lô
và nói:
- Thưa quý anh, chị mỗi người đều có một phần
quà, quà này không phải của Tâm mà chính của gia đình quý anh, chị gửi đến,
trước đây ròng rã hai năm, Tâm phải bắt lại liên lạc với gia đình của quý anh
chi ở bên nhà mới có kết quả hôm nay, xin quý anh chị tự nhiên tiếp nhận phần
của mình theo tên họ trên bao quà.
Mỗi người nhận quà rất vui và nô nức mở ra từng
bao quà một, trên khuôn mặt của anh, chị, em bỗng hồng hào hẳn ra, giống như
một thời, chúng tôi đã từng đi tặng quà cho các em tại những Cô Nhi Viện Sài
Gòn vào dịp Tết. Còn bây giờ quý anh, chị, em chỉ biết khóc không biết cười,
tôi cũng khóc theo vì trong những thư ấy có ít nhiều nói về những kỹ niệm thời
thơ ấu của chúng tôi.
Sau tám năm bạn tôi sống chết trong rừng sâu,
giá lạnh và khổ hơn người bị lưu đày, nay gặp lại bạn, nhận được thư nhà, đem
lại cho anh, chị, em hồi sinh mới, mỗi người nhận được trên hai mươi lá thư và
một bao thư tiền, có chị bảo:
- Số tiền này "hạ giới" đi tìm thế
giới tự do được rồi.
Có anh nói:
- Độc thân thì được, nếu gia đình đông người
không được.
Linh Ái đề nghị:
- Số tiền này, tập trung vào một người, nhờ anh
Vinh Cút kít quản lý, và cử ai có khả năng sinh lợi "hạ giới" trước,
một người đi để cứu nhiều người, tôi đề nghị chị Trang đi trước vì chị là Bác
sĩ có khả năng sinh lợi, người thứ hai là anh Minh vì anh là họa sĩ thành danh
tại Hong Kong, ai có ý kiến gì không?
Vinh đáp:
- Ý kiến của Ái rất hay chúng ta quyết định như
vậy đi.
Tất cả đồng ý và chị Trang hỏi tôi:
- Tâm là người ngoài làng, biết cách chạy có
thẻ ID, như vậy trước hết mọi người phải có thẻ ID và chọn nơi nào để sinh lợi,
cũng là nơi liên lạc trong và ngoài làng, xin Tâm có ý kiến trước khi tập thể
lấy quyết định.
Tôi suy nghĩ một lúc, rồi liều mình nói:
- Thưa chị Trang, em sẽ vận động cho mọi người
có thẻ ID, nhưng có điều kiện không được cho bất cứ ai biết, kể cả thân nhân
của mình và đây là địa chỉ liên lạc trực tiếp Côn Minh với Paris, chị Trang đến
Côn Minh trước, tiếp theo anh La Minh đi Hong Kong, kế đó là Mỹ Châu nguyên là
Y tá có khả năng làm việc với chị Trang, theo Tâm biết trên đất Trung Quốc đang
thiếu Bác sĩ và Y tá. Quý anh chị suy nghĩ thế nào?
Tất cả đưa tay lên đồng ý đề nghị của tôi,
riêng về tâm trạng của tôi, miệng đã thành lời hứa, khó từ chối, tuy biết khó
làm mà vẫn phải liều mạng. Hiện thời anh, chị, em cũng không hiểu lý do nào tôi
có thẻ nhận diện ID và đến được làng với trên lưng trách nhiệm, nào là thư và tiền
không bị mất cắp.
Tất cả trở lại cười vui sau cơn
khóc lóc, mọi người đồng lạc quan khi nghe sẽ có thẻ ID, người Việt tị nạn có
thẻ nhân diện ID xem như cơ may đã đến và hy vọng "hạ giới" an toàn
cho sự sống trở lại, đi ra từ cửa chết.
Đến đây ai cũng hy vọng và lạc
quan tiếp tục sống, anh Vinh nói:
- Thôi, đêm đã khuya chúng ta đi
ngủ, chúc cho nhau người người nằm mơ thấy thẻ nhân diện ID trên tay.
Mỗi người một cái mền "biên
giới", trùm kín mít, nằm trên những tấm phên tre thưa, tôi thấy anh, chị,
em ấy ngủ bình an.
ÿ Huỳnh Tâm
8 Ý Kiến:
001
- Win
Rất thương tâm cho người dân sống
trong chế độ CS . ngày nào còn Cs thì người dân còn khổ/
002
- ducleminh
Gửi tác giả, anh là ai vậy, Huỳnh
Tâm? Tôi vô cùng cảm ơn anh! Tôi muốn biết rõ hơn về anh! Nếu được, tôi rất
muốn cùng anh trở lại nơi này!
003
- Hồ Choa
CS chia rẽ các dân tộc. Đông Âu
đã qua nhưng vẫn để lại hận thù như Ba Lan với Nga. Việt TRung, Triều tiên
Trung quốc thì CS đã làm cho các dân tộc hận thù đã lên đỉnh điểm. Nhật đầu tư
vào Trung quốc như thế nhưng CS TQ vẫn lợi dụng chủ nghĩa dân tộc để làm cho
dân TQ thù người Nhật. Thực ra VN bài Hoa nằm trong cái gọi là cải tạo tư bản.
Hoa kiều là một lực lượng tư bản lớn, Lê Duẩn đã vận dụng để đạt hai đích: Bài
Hoa và cải tạo tư bản. Lê Duẩn có tội nhưng xét cho cùng thì cũng có công đuổi
được hàng vạn người Hoa ra khỏi VN.
004
- Nguoicaonghuyen
Qua các bài viết của tác giả ,
mới hiểu thêm được sự tàn ác của CS Việt Nam và TQ
005
- HG
Cá mè một lứa
006
- 207
Cái này thì có thật.
Tôi có quan sát tận mắt việt cộng
giết dân Việt gốc Hoa chiếm đoạt tài sãn của họ qua các chiến dịch đánh tư sãn
mại bản.
Tàn sát đồng bào Việt gốc Hoa
khắp nơi dọc bờ biển miền Nam khi họ tìm cách vượt biên.
Người Việt gốc Hoa phải trả một
giá rất đắt cho sau năm 1975.
Bọn việt cộng chóp bu đi từ quyết
định sai lầm đến quyết định sai lầm khác.
Bây giờ trung cộng lấy cớ
"đòi đền bù", việt cộng dâng luôn tất cả các vùng dọc theo biên giới
!
Nhưng thật tế cho thấy dân Việt
gốc Hoa vẩn không được gì, vẩn bị đàn áp dả man ngay cả bởi chính phủ trung
cộng.
007
- CamthuCS
Càng đọc càng thấy căm thù bọn
CS. Hiện nay họ sống thế nào?
008
- VienTham1
Thank Huỳnh Tâm so Muchhhhhhh,Qua
Huỳnh Tâm ,mình mới biết-được vẫn-còn cộng-đồng Người tị-nạn tại biên-giới VN-3Tàu
và hiểu-được đời-sống thực của Họ Quá gian-truân / bất-hạnh ngoài trí-óc
tưởng-tượng !!!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét