Dana Dillon

Đối phó với Bắc Kinh ở Biển Đông

   Tại sao Mĩ không nên để cho tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc diễn ra không đối kháng.

Nguồn nguy hiểm nhất của sự bất ổn định ở châu Á  là một Trung Quốc trỗi dậy tìm cách tái khẳng định chính mình, và nơi mà Trung Quốc rất có thể liều lĩnh đi vào một cuộc xung đột quân sự là Biển Đông. Trong thập kỉ thứ hai của thế kỉ 21, vùng biển hiếm khi yên ổn của Biển Đông đang sủi bọt từ một sự kết hợp giữa đua nhau tập trận hải quân và lời qua tiếng lại nóng bỏng. Nhiều học giả, chính trị gia, và đô đốc thấy Biển Đông như là một nơi đua tranh trong tương lai giữa các cường quốc.


Suy đoán về va chạm sắp xảy ra bắt đầu từ Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) Tháng Bảy 2010 khi Ngoại trưởng Mĩ Hillary Clinton đưa ra một tuyên bố trễ hạn về quyền lợi của Mĩ ở Biển Đông. Bà Clinton khẳng định rằng Hoa Kì có một lợi ích quốc gia trong tự do hàng hải ở Biển Đông; rằng Hoa Kì ủng hộ một tiến trình hợp tác trong việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ ở đó, và rằng Hoa Kì ủng hộ tuyên bố của ASEAN-Trung Quốc về cách hành xử của các bên ở Biển Đông năm 2002.

Mặc dù tuyên bố ủng hộ của bà Clinton dành cho chính các thỏa thuận riêng của Trung Quốc với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã đáp trả một cách tiêu cực, nói rằng tuyên bố của bà Bộ trưởng “thực tế là một sự công kích Trung Quốc.”  Quân đội Trung Quốc nói rằng họ phản đối “việc quốc tế hóa” tranh chấp của sáu quốc gia và bắt đầu một cuộc tập trận hải quân mới và không bình hường ở Biển Đông ngay tuần lễ sau đó.

Đây là cuộc đối đầu trên biển gây ra từ khẳng định của Trung Quốc về chủ quyền đối với toàn bộ Biển Đông và ý đồ thực thi chủ quyền đó. Nhưng nguồn gốc của sự cao ngạo của Trung Quốc là quan điểm của họ về sứ mệnh lịch sử thống trị mọi thứ trên đời. Mở rộng biên giới của Trung Quốc hàng ngàn dặm trên Biển Đông chỉ là một biểu hiện về chính sách của cách nhìn về một trật tự thế giới mới của Trung Quốc. Nhất quán với hệ tư tưởng Hoa vi trung (Sinocentric) của họ, Bắc Kinh tin rằng quyền lực của mình trên các nước láng giềng nhỏ hơn nên bao hàm trong việc  xác định chính sách đối ngoại của họ. Sau khi Bà Clinton thách thức yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc đối với  toàn bộ biển Đông, theo như tường thuật, bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc đã trừng mắt nhìn một nhà ngoại giao Singapore và tuyên bố, “Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là các nước nhỏ, và đó chỉ là một thực tế”. Nói thêm về quan điểm của Trung Quốc về vị thế của nó đối với các nước, hôm Thứ Hai sau đó Bộ Ngoại giao Trung Quốc đăng một tuyên bố rằng “quan điểm của Trung Quốc đại biểu cho lợi ích của ‘đồng bang châu Á.’”

Nhất quán với hệ tư tưởng Hoa vi trung (Sinocentric) của họ, Bắc Kinh tin rằng quyền lực của mình trên các nước láng giềng nhỏ hơn nên vận dụng vào việc xác định chính sách đối ngoại của họ.

Các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Nam Trung Hoa đã xảy ra nhiều thập kỉ, nhưng ngày nay chính phủ Trung Quốc đầy cảm giác hoàn thành và Quân đội Giải phóng nhân dân được tuồn cho ngân sách quân sự phát triển nhanh nhất trên thế giới. Tuyên bố của bà Clinton có thể bắt nguồn từ tuyên bố trước đó của đối tác Trung Quốc của bà,  ủy viên hội đồng nhà nước chịu trách nhiệm vấn đề đối ngoại, Đới Bỉnh Quốc, trực tiếp với chính bà Clinton và lặp đi lặp lại với một số phụ tá của Mĩ rằng việc thực thi chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông là một “lợi ích cốt lõi “ ngang hàng với Đài Loan và Tây Tạng. Theo tường thuật, trong khi Đới Bỉnh Quốc ngưng sử dụng từ “lợi ích cốt lõi” để mô tả chủ quyền trên biển của Trung Quốc, nhiều nhân vật trong quân đội của Trung Quốc vẫn tiếp tục sử dụng. Tháng 1 năm 2011 trang mạng của tờ Nhân dân Nhật báo, cơ quan chính thức của đảng Cộng sản Trung Quốc, khảo sát độc giả về việc liệu Biển Đông có là “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc hay không, 97 % của gần 4.300 người trả lời là có.

Chưa đến nổi tới một cuộc chiến tranh bắn nhau, bảo vệ tự do hàng hải tại một trong những tuyến đường biển bận rộn nhất của thế giới đòi hỏi một giải pháp hoà giải cho các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ. Bắt đầu một tiến trình để giải quyết hoặc trung hoà hoá các vấn đề sẽ đòi hỏi sự lãnh đạo của Mĩ và giải quyết. Ngoại giao cương quyết được hỗ trợ bởi sức mạnh hải quân và sự lãnh đạo kiên trì có thể tạo ra một sự cân bằng trong khu vực để bảo vệ tự do hàng hải, tính toàn vẹn của luật pháp quốc tế, và độc lập và chủ quyền của các quốc gia Đông Nam Á.

Giải pháp tồi tệ nhất cho các tranh chấp Biển Đông theo quan điểm của Mĩ đơn giản là để cho các nước láng giềng ASEAN của Trung Quốc ngầm bằng lòng với vị thế của Bắc Kinh và để cho toàn bộ Biển Đông trở thành lãnh thổ có chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Vị thế này của Bắc Kinh cũng là giải pháp tồi tệ nhất đối với ASEAN và mọi quốc gia có giao thương khác trên hành tinh. Nhưng một giải pháp cũng gần như tồi tệ như vậy là để cho Mĩ trở thành nước can dự vào một cuộc đối đầu song phương với Trung Quốc mà không có sự đồng ý và cam kết về hành động của Mĩ bởi chính các nước duyên hải đang tranh chấp và các nước đồng minh của Mĩ châu Á-Thái Bình Dương. Nếu không có sự ủng hộ của các liên minh khu vực, Mĩ sẽ vướng vào một chiến dịch ở tận đầu cuối phía xa của đuôi hậu cần của mịnh nhưng lại sâu bên trong tầm tay của một cường quốc lớn và đang trổi dậy.

Giải pháp lí tưởng sẽ là để cho các nước ASEAN phải đứng lên đối lại với Trung Quốc và nhấn mạnh vào một giải pháp đa phương cho các tranh chấp dựa trên các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc của Luật Biển và Quy tắc ứng xử quy định bởi Hiệp ước Thân thiện và Thương mại, mà Trung Quốc đã kí năm 2002. Giải pháp này sẽ không thể thực hiện được trừ khi ASEAN phát triển được các nguồn tài nguyên chính trị kinh tế và quân sự để thách thức ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong ngắn hạn, sự ủng hộ từ Hoa Kì và các cường quốc khu vực khác bao gồm Nhật, Ấn Độ, và Australia có thể là một lồng ấp trong khi chờ ASEAN phát triển một khả năng ngăn chặn tại chỗ. Về lâu dài, ASEAN phải tự mình đứng dậy.

ASEAN sẽ miễn cưỡng chấp nhận sự trợ giúp của Mĩ nếu sự trợ giúp này thể hiện như một phần của chính sách điạ chính trị chống Trung Quốc của một cường quốc lớn.Trung Quốc không chỉ là một nước láng giềng của Đông Nam Á, mà còn là đối tác thương mại, nhà đầu tư quan trọng nhất của nó, và đôi lúc cũng là đồng minh chính trị. Khẳng định một mối đe dọa Trung Quốc và yêu cầu các nước ASEAN tham gia vào một liên minh chống Trung Quốc là một công thức cho sự thất bại về chính sách. Thay vào đó, Hoa Kì phải diễn giải thành một tầm nhìn cho các quốc gia châu Á tương phản với việc áp đặt lại quyền bá chủ Trung Quốc khi xưa. Tầm nhìn đó phải bao gồm các nguyên tắc truyền thống của phương Tây về thương mại mở, độc lập chính trị, và chủ quyền lãnh thổ.



VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG

Sáu nước tuyên bố các đảo của biển Nam Trung Hoa: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Việt Nam, Malaysia, Philippines và Brunei. Trung Quốc và Đài Loan (chính phủ hai nước kình địch của “Trung Hoa”) đòi chủ quyền Biển Đông dựa trên các vật phẩm văn hóa, những ám chỉ văn chương mơ hồ, và việc chiếm đóng hoàn toàn. Việt Nam cũng đòi chủ quyền tất cả các đảo trong Biển Đông chủ yếu dựa trên các tài liệu lịch sử, trên việc từ bỏ chủ quyền sau chiến tranh của Nhật Bản đối với các đảo ở biển Đông, và trên sự thừa kế những di sản thực dân Pháp đối với một số một số đảo nhỏ then chốt ở biển Đông. Philippines, Malaysia, và Brunei đòi chủ quyền tất cả hay một phần vạt biển phía Nam của quần đảo Trường Sa phần lớn dựa trên các vùng đăc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa tương ứng. Theo UNCLOS, vùng đặc quyền kinh tế trải dài 200 hải lí từ đường mức triều thấp trên bờ biển của một quốc gia. Trung Quốc công bố bản đồ của Biển Đông cho thấy một đường đứt khúc trải rộng thẳng tới EEZ của đảo Natuna của Indonesia, do đó có khả năng mở rộng số lượng các bên tranh chấp mâu thuẫn nhau lên đến bảy.

Đó không phải là một vấn đề pháp lí phức tạp, nhưng là một mối đe dọa gần và nguy hiểm cho nền kinh tế toàn cầu và hệ sinh thái khu vực. Các tuyến giao thông qua Biển Đông nối châu Âu và châu Á, làm cho Biển Đông thành một trong những đường biển nhộn nhịp nhất trong các tuyến đường thủy trên thế giới. Gần một nửa vận chuyển đường biển của thế giới đi qua đó, và một tỉ lệ đáng kể dầu mỏ phía đông bắc châu Á từ Trung Đông. Biển Đông cũng giàu hydrocarbon ở nhiều dạng khác nhau, và việc khai thác đầy đủ các tài nguyên này đang bị kìm hãm do ranh giới chưa được giải quyết và do có đe dọa quân sự trắng trợn. Cuối cùng, do đánh bắt quá mức, có một sự suy giảm rõ rệt trong tổng số cá bắt được đã khiến ngư dân sử dụng các kĩ thuật tích cực hơn. Khi không có thỏa thuận đa phương để điều chỉnh việc đánh bắt cá ở Biển Đông, ngành công nghiệp đánh bắt cá và sinh thái biển sẽ nhanh chóng đi tới thảm hoạ.

Tranh chấp Biển Đông không phải là vấn đề pháp lí phức tạp nhưng là mối đe dọa nguy hiểm cho nền kinh tế toàn cầu và hệ sinh thái khu vực.

Đòi hỏi củaTrung Quốc. Tất cả các nước nguyên đơn biện minh cho tuyên bố lãnh thổ tương ứng của họ bằng cách sử dụng các định nghĩa diễn giải sâu các điều khoản UNCLOS. Tuy nhiên, chỉ có Trung Quốc biểu hiện sự kết hợp giữa đòi hỏi chủ quyền rộng về  lãnh thổ, sức mạnh  kinh tế, chính trị và quân sự, môt lập trường ngoại giao không khoang nhượng cùng với thái độ hung hăng lộ rõ trong việc theo đuổi mục tiêu của nước này.  Sự kết hợp độc nhất những đặc điểm này lập tức làm cho Bắc Kinh thành tay chơi quan trọng nhất trong việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ và là trở ngại lớn nhất để làmviệc này.

Khi thảo luận hướng về ngoại giao và một giải pháp giải đàm phán cho tranh chấp, Bắc Kinh vẫn luôn lưu ý tất cả các nước nguyên đơn khác rằng Biển Đông là lãnh thổ thuộc chủ quyền của Trung Quốc và từ chối đàm phán trừ khi các bên chấp nhận chủ quyền không thể chối cãi của Trung Quốc. Đến nay, chiến thuật của Trung Quốc là chỉ tham gia các cuộc đàm phán song phương và né tránh việc phân xử khách quan thông qua các thủ tục của UNCLOS hoặc bất ki phe bên ngoài nào. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đưa ra các tuyên bố và cung cấp các định nghĩa diễn giải sâu làm phức tạp quá mức tiến trình giải quyết tranh chấp và đặt Trung Quốc vào một cuộc đối đầu với phần còn lại của thế giới đi lại trên biển.

Thềm lục địa và tính phi thực tế của việc vẽ ranh giới cho các nước ven biển với bờ biển phức tạp và lòi lõm thái quá như Na Uy, hoặc cho các quốc gia quần đảo, như Philippines hay Indonesia, đã được công nhận trong các điều khoản của UNCLOS như Điều 7 (“đường cơ sở thẳng”), Điều 47 (“đường cơ sở quần đảo”), và các Điều 76 và 77 (“Thềm lục địa”). Những điều khoản này cho phép các nước vẽ đường biên giới thẳng qua các chỗ ven biển và các hải đảo có địa hình phức tạp hoặc gần nhau, miễn là chúng không ảnh hưởng với thông lệ tự do hàng hải. Tuy nhiên, Bắc Kinh mở rộng định nghĩa của những điều khoản này bằng cách áp dụng chúng cho các đảo và vùng biển mà họ đòi chủ quyền.

Uỷ ban Thường vụ của Quốc hội Nhân dân đã thông qua “Luật về lãnh hải và khu vực tiếp giáp” (Luật lãnh hải) ngày 25 tháng hai năm 1992. Luật này không xác định rõ ràng đòi hỏi chính xác về lãnh thổ của Trung Quốc, nhưng nó khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hơn nữa, Trung Quốc đã công bố một bản đồ cho thấy toàn bộ Biển Đông từ đảo Hải Nam cho đến đảo Natuna của Indonesia nằm trong một vòng kín xem như lãnh hải của mình. Năm 1993, bộ trưởng ngoại giao của Trung Quốc trấn an bằng lời với đối tác Indonesia rằng đảo Natuna đông dân cư và  quan trọng về kinh tế quan trọng không bị Trung Quốc đòi giành chủ quyền đâu, nhưng kể từ đó Bắc Kinh chưa bao giờ chính thức xác nhận tuyên bố không chính thức đó.

Theo UNCLOS và thông lệ quán quốc tế, “lãnh hải” kéo dài 12 hải lí từ đường vạch mức triều thấp dọc theo bờ biển của một quốc gia. Tuy nhiên, khi Bắc Kinh kí kết UNCLOS họ đưa vào thêmncác tuyên bố nói rằng các định nghĩa đã được quy định về lãnh hải và quyền của quốc gia ven biển khác với các định nghĩa nêu trong UNCLOS. Trong số những điều khác, Trung Quốc tuyên bố rằng:

1. Theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc được hưởng các quyền  chủ quyền và quyền tài phán trên một vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí và thềm lục địa.

2. Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc sẽ thực hiện, thông qua tham vấn, việc phân định ranh giới về quyền tài phán trên biển với các quốc gia có bờ biển đối diện hoặc tiếp giáp với Trung Quốc, tương ứng, trên cơ sở luật pháp quốc tế và phù hợp với nguyên tắc công bằng.

3. Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc tái khẳng định chủ quyền đối với tất cả các quần đảo và đảo liệt kê trong Điều 2 của Luật của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải và vùng tiếp giáp, được ban hành ngày 25 tháng 2 năm 1992.

4. Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc tái khẳng định rằng các quy định của Công ước LHQ về Luật Biển liên quan đến việc qua lại thông thường (innocent passage) qua lãnh hải không làm phương hại đến quyền của một quốc gia ven biển đòi hỏi, theo luật pháp và các quy định của quốc gia đó, một nhà nước nước ngoài phải có được sự chấp thuận trước hoặc thông báo trước cho các quốc gia ven biển về sự di chuyển của tàu chiến của mình qua lãnh hải của quốc gia ven biển.

Những tuyên bố này thay đổi một cách cốt lỏi ý nghĩa của các điều khoản UNCLOS và trái ngược hẳn với luật biển truyền thống. Trung Quốc tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế của họ không chỉ là một ranh giới kinh tế mà lãnh thổ có chủ quyền, do đó mở rộng biên giới biển ra xa 200 hải lí. Bắc Kinh cũng tuyên bố rằng các đảo không có người ở và các rạn san hô của Biển Đông là lãnh thổ Trung Quốc, và do đó, cũng có các vùng đặc quyền kinh tế trải rộng thêm hơn 200 hải lí từ mỗi đảo, và thềm lục địa của nó trải rộng ra xa tới mức như Bắc Kinh chọn để vẽ nó. Cuối cùng, các tuyên bố này mở rộng rất nhiều đặc quyền của Trung Quốc với tư cách là một quốc gia ven biển qua việc nhấn mạnh rằng tàu chiến qua lại bình thường trước tiên phải được sự cho phép của Trung Quốc, một lần nữa vi phạm của cả UNCLOS lẫn luật biển truyền thống.

Bắc Kinh cũng tuyên bố rằng các đảo không có người ở cũng có vùng đặc quyền kinh tế.

Vị thế của chính phủ Trung Quốc đã tác động trực tiếp đến các nền kinh tế trong vùng, tự do hàng không và  tàu bè của toàn cầu và của  lực lượng hải quân và không quân Mĩ. Nếu Trung Quốc được quyền thực thi chủ quyền đối với Biển Đông thì tàu buôn đi qua vùng biển đó, dù mang cờ gì, cũng sẽ phải chịu ràng buộc bởi pháp luật và các quy định của Trung Quốc và bất kì khoản phí, thuế hoặc hạn chế khác mà Trung Quốc có thể chọn để áp đặt. Ngoài ra, Trung Quốc sẽ có đặc quyền khai thác cá tôm, khoáng sản trên biển mà các nước ven biển khác phụ thuộc vào cho một phần thu nhập đáng kể tài nguyên thiên nhiên của họ. Cuối cùng, Trung Quốc nhấn mạnh rằng bất cứ tàu chiến đi qua Biển Đông trước hết phải được sự cho phép làm vô hiệu quyền của tàu chiến nước ngoài tiến hành việc đi lại bình thường. Hơn nữa, các tàu chiến đi qua vùng lãnh hải chịu những hạn chế nghiêm trọng áp dụng trên các hoạt động của mình.

Những hạn chế này, nếu áp dụng cho toàn bộ Biển Đông, sẽ hạn chế nghiêm trọng hoạt động của Hải quân Mĩ và cản trở khả năng bảo vệ việc vận chuyển đường biển của Mĩ và quốc tế. Hơn nữa, dựa trên vị thế của Trung Quốc có thể thấy rằng tranh chấp giữa Trung Quốc và Hoa Kì về hoạt động của máy bay do thám EP-3 gần đảo Hải Nam tháng Tư năm 2001; nhìều hành động sách nhiễu chống lại các tàu Mĩ USNS Impeccable và Victorious mùa xuân năm 2009 ; vụ va chạm giữa một tàu ngầm Trung Quốc với giàn phát tín hiệu của tàu USNS John McCain tháng Sáu năm 2009, và việc phô trương lực lượng gần đây qua các cuộc tập trận hải quân trong vùng biển Hoàng Hải không phải là những sự cố cô lập, mà là những chương mới nhất trong chiến dịch của Trung Quốc để khẳng định chủ quyền đối với  Biển Đông và cũng có thể là những vòng đấu đầu tiên trong một trận đấu xô đẩy leo thang giữa Trung Quốc và Hoa Kì.

Đòi hỏi của Trung Quốc mạnh cỡ nào? Vào thế kỉ thứ 9, một tàu buôn chạy buồm của Ả Rập chìm ngài khơi đảo Belitung, chỗ hiện nay thuộc lãnh hải Indonesia thuộc mảng phía nam của Biển Đông. Con tàu đầy 60.000 hiện vật bằng vàng, bạc, sứ mỏng và rõ ràng phát xuất từ thành phố cảng Quảng Châu ở nam Trung Quốc và hướng tới các thị trường ở Đông Nam Á. Tàu buôn này do ngư dân Indonesia phát hiện vào năm 1998 và hiện được coi là một trong những phát hiện quan trọng nhất trong khảo cổ học biển.

Xác tàu Belitung này không phải là một tàu buôn Trung Quốc (nhà Đường Trung Quốc đã không có một văn hoá đi biển chuyên nghiệp), nhưng nó là biểu tượng của ý thức hệ Hoa vi trung (Sinocentric) mới vể sự nổi trội của Trung Quốc  ở  Đông Á. Đòi hỏi chủ quyên Biển Đông của Chính phủ Trung Quốc một phần dựa trên các di tích cổ xưa, tiền kim loại, mảnh gốm, và đại loại những thứ như thế mà Trung Quốc vất (xả rác) trên các đảo nhỏ ở Biển Đông. Sự kiện là các hiện vật đó có nhìều khả năng nhất là không do các thủy thủ Trung Quốc bỏ lại, hình như không ảnh hưởng đến các tuyên bố kì quặc của Bắc Kinh.

Trung Quốc cũng biện minh cho các tuyên bố của mình về Biển Đông với những bài viết mơ hồ khác nhau cách đây hơn 2.000 năm.

Không thể nào Bắc Kinh chứng minh được rằng người Trung Quốc đã từng thường trú ở các quần Trường Sa hay Hoàng Sa, bởi vì các đảo này là không thể ở được. Nhiều đảo hoàn toàn hoặc từng lúc bị chìm dưới nước. Những đảo hầu như khô ráo thì lại thiếu nguồn nước ngọt, và các địa hình thấp này phải luân phiên phô tiếp với các loại gió mùa. Ngày nay, dân số duy nhất trên các hải đảo và các rạn san hô ở đây chỉ là các đơn vị quân đội được duy trì ở mức chi phí quân sự to lớn từ các chính phủ tương ứng và những người này phải chịu mức nguy cơ cá nhân cao. Các đảo này hoàn toàn không thể nói là có “một đời sống kinh tế của riêng mình” và do đó không thể sinh ra một vùng đặc quyền kinh tế riêng cho chúng theo Điều 121 của UNCLOS.

Trung Quốc cũng trích dẫn nhiều văn bản lịch sử mơ hồ, đầy nghi vấn, và ngoài lề (off-point) trở ngược hơn 2.000 năm trong nỗ lực lập hồ sơ đòi hỏi chủ quyền đối với Biển Đông.  Chắc chắn rằng các nhà thám hiểm và ngư dânTrung Quốc đã từng đi thuyền trên Biển Đông trong 2000 năm qua, và một số đã ghi lại những khám phá của họ, nhưng cũng rõ ràng như thế rằng theo truyền thống, Trung Quốc đã xem đảo Hải Nam là tiền đồn cực Nam của nền văn minh của họ, chắc chắn cho đến cuối thế kỉ 19.

Những tài liệu cổ của Trung Quốc không bác bỏ những tuyên bố của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, hay Indonesia. Có bằng chứng khảo cổ học đáng kể cho thấy rằng những người khu vực Đông Nam Á hiện nay đã từng sống trên những quần đảo này rất lâu trước khi Trung Quốc có sử viết. Nhiều làn sóng di dân đã tới Indonesia và quần đảo Phi Luật Tân xa xưa tới cỡ 250 000 năm. Những giống dân đầu tiên đi thuyền chèo hoặc buồm trên Biển Đông để đi đến nơi mà con cháu của họ đang sống ngày nay. Mặc dù quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa quá nhỏ để cư trú thường xuyên, các dân tộc của tất cả các nước ven biển này đã đánh bắt tôm cá và khai thác kinh tế hai quần đảo đó trước khiTrung Quốc tồn tại.

Đối với các quốc gia ven Biển Đông, đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc tương tự như một trong những hàng xóm của bạn tuyên bố rằng toàn bộ đường phố trước nhà của bạn là tài sản cá nhân của anh ta. Hơn nữa, anh ta còn cho rằng vỉa hè, lối lái xe vào nhà của bạn, và sân trước đến tận trước cửa nhà bạn cũng thuộc về anh ta. Các bảo vệ có vũ trang của anh ta đậu xe trên lối vào nhà bạn và anh ta bẽ hoa ở vườn bạn. Nếu bạn hay người hàng xóm của bạn phản đối, anh ta phủ nhận tính hợp lệ của chủ quyền của bạn và từ chối giải quyết ở tòa án. Nếu ai đó nằng nì về về quyền sở hữu của mình thì các bảo vệ của anh ta sẽ đánh người đó.

NHỮNG CÁCH NHÌN ĐUA TRANH

Cộng đồng quốc tế, dẫn đầu là Mĩ, đang theo đuổi một tầm nhìn về tương lai của Đông Nam Á và cách giải quyêt các tranh chấp ở Biển Đông đấu lại với quan điểm về thế giới của Trung Quốc. Cách nhìn thế giới của các nhà nước quốc gia (nation states) là cách nhìn theo mô hình Westphalian về các đất nước độc lập với các vùng lãnh thổ có chủ quyền. Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Công ước LHQ về Luật Biển là những biểu hiện của mô hình đó. Trái lại, cách nhìn của Trung Quốc,  là một trật tự thế giới theo kiểu Trung Quốc, một bộ mặt mới cho hệ thống thiên triều – chư hầu của nước Trung Quốc khi xưa, trong đó Trung Quốc là trung tâm quyền lực và Bắc Kinh là cực chính trị toàn cầu.

Các quốc gia Đông Nam Á đã áp dụng mô hình Westphalian như của chính họ và thành lập ASEAN như một cách bảo vệ minh bạch chủ quyền và độc lập của các nước thành viên. Tuy nhiên, hệ thống đế quốc-chư hầu là một phần quen thuộc của lịch sử Đông Nam Á và với giá là sự độc lập mà họ chấp nhận được, đặc biệt như là phương cách thay cho sự đối đầu với sức mạnh quân sự của Trung Quốc.

Trật tự thế giới theo kiểu Trung Quốc. Cơ chế của hệ thống chư hầu thường được miêu tả tương đối lành tính. Các nước dâng cống nạp, các vị vua hoặc đại sứ của họ thực hiện một buổi lễ khấu đầu hoàng đế Trung Quốc thừa nhận chủ quyền của mình, và đổi lại họ được ban cho quà tặng đắt tiền và được cấp những nhân nhượng thương mại hấp dẫn. Theo các nhà sử học tán thành cách nhìn này về các hệ thống chư hầu, các hoàng đế Trung Quốc hiếm khi can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia và không hám tới lãnh thổ.

Thực tế là các hoàng đế Trung Quốc đã xem vương quốc chư hầu của họ theo cùng một cách mà các vị vua ở châu Âu xem thuộc địa của họ: Hoàng đế không ngần ngại sử dụng vũ lực quân sự để bảo vệ tài sản của mình. Ví dụ, ở thế kỉ 15, một vị vua chư hầu trên đảo Java của Indonesia đã giết một số sứ thần do hoàng đế Trung Quốc đã được gửi tới để phong vương cho “vua” tự xưng ở thuộc địa của Trung Quốc tại Palembang, một thuộc địa đã thần phục Java trước đó. Để đáp trả hoàng đế đã phái một hạm đội hải quân lớn để chuyển một thông điệp rằng: “Phải lập tức dâng ngay 60.000 lượng vàng để chuộc lại tội phạm thì mới có thể bảo toàn đất đai và dân chúng. Nếu không sẽ không thể ngăn quân đội thiên triều tới trừng phạt”.

Khi đảng Cộng sản Trung Quốc lật ngôi hoàng đế vào năm 1947 họ đã tìm cách lấy lại quyền kiểm soát tất cả các lĩnh vực cũ của đế chế. Học giả đáng kính về Trung Quốc John K. Fairbanks mô tả thế giới quan của Trung Quốc theo các đường tròn đồng tâm với một “Khu Hoa” (Sinic) bên trong gồm các nước liền kề có văn hóa tương tự, “Khu nội Á” gồm các nước chư hầu ở rìa lãnh thổ Trung Quốc, và ” Khu ngoại vi ” gồm các nước rợ. Vương quốc Kashgar đã từng là một chư hầu trong vùng ngoại vi, trái với Hàn Quốc thuôc Khu Hoa bên trong. Ngày nay, Vương quốc Kashgar xưa là một phần của Trung Quốc đổi tên thành tỉnh Tân Cương. Mặc dù thuộc địa này từng hai lần tuyên bố độc lập với tên là Cộng hòa Đông Turkistan (vào năm 1933 và 1944), Quân đội Nhân dân Giải phóng đã “giải phóng một cách hòa bình” nhà nước độc lập này từ chính nó năm 1949.

Các hoàng đế Trung Quốc đã xem các vương quốc chư hầu của họ giống như các vị vua ở châu Âu xem thuộc địa của họ.

Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc thiếu sức mạnh để mở rộng ảnh hưởng của nó đến tất cả các cựu chư hầu của đế chế. Hàn Quốc thoát khỏi số phận của Kashgar vì sự trổi dậy của Đế quốc Nhật Bản. Hàn Quốc đã trở thành một chiến trường giữa hai đế quốc Trung Quốc và Nhật Bản, và  Hoàng đế Nhật Bản đã giành chiến thắng năm 1895. Mặc dù có những kỉ niệm đau đớn thời Nhật chiếm đóng, lớp bạc trang sức cho người Hàn Quốc ngày nay là do việc bị Nhật thuộc địa hoá và hậu quả chiến tranh thế giới II ngăn cản Trung Quốc thôn tính Hàn Quốc như nó đã làm với Đông Turkistan và Tây Tạng.

Ý kiến cho rằng Hàn Quốc có thể đã phải chia sẻ số phận của các cựu chư hầu của Trung Quốc không chỉ là suy đoán mà là ý kiến ​​đã được xem xét của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc. Năm 2002, chính phủ Trung Quốc đã phát động một nỗ lực nghiên cứu gọi là Dự án Đông Bắc. Năm 2004 các nhà nghiên cứu dự án này ở Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc tuyên bố rằng vương quốc Hàn khi xưa là Koguryo không phải là một vương quốc độc lập, nhưng là một tỉnh của Trung Quốc.Cùng năm đó, Bộ Ngoại giao Trung Quốc loại bỏ tất cả các tài liệu tham khảo nêu Koguryo như là một thời kì lịch sử Hàn Quốc khỏi trang web của mình. Chính phủ Trung Quốc đã chủ trì các nỗ lực nghiên cứu tương tự được gọi là Dự án Tây Bắc và Tây Nam tương ứng cho Tân Cương và Tây Tạng. Có lẽ chỉ là vấn đề thời gian trước khi Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc ra mắt dự án nghiên cứu mới về cựu chư hầu của Trung Quốc ở Đông Nam Á.

Đông Nam Á cũng nợ nền độc lập đương đại của mình từ sự chiếm đóng của nước ngoài.Giữa thế kỉ 17 và 19, các cường quốc châu Âu mở rộng đế chế của họ tới các nhà nước chư hầu của Trung Quốc khắp vùng Nam Á và Đông Nam Á, bao gồm cả Việt Nam và nhiều vương quốc khác cai trị trong các khu vực của Philippines và Indonesia hiện nay. Người Nhật và châu Âu tướt các nước này khỏi tay các hoàng đế Trung Quốc yếu kém theo những gì màTrung Quốc hiện đại nhạo báng là “hiệp ước bất bình đẳng”, và họ biến các thuộc địa của Trung Quốc thành các thuộc địa của châu Âu. Sau khi đế quốc Nhật bị hủy diệt trong chiến tranh thế giới II và các đế quốc châu Âu rút lui khỏi châu Á, di sản quan trọng nhất của việc chiếm đóng đó là khái niệm nhà nước độc lập và có chủ quyền còn sót lại. Trung Quốc đã quá yếu để tái khẳng định quyền kiểm soát các nước nước chư hầu cũ chống lại sự đối đầu của châu Âu và Mĩ, và các quốc gia mới đã được xây dựng trên các khuôn mẫu biên giới của các thuộc địa cũ được giải phóng, ít nhất là tạm thời, khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc.

Trung Quốc không quan tâm đến các hiệp ước và căn cứ của các đòi hỏi hiện nay về lãnh thổ của là các mối quan hệ đế quốc – chư hầu trước thời thuộc địa.

Để theo đuổi tham vọng của Bắc Kinh, Trung Quốc không quan tâm đến các “điều ước bất bình đẳng” đàm phán với Nhật Bản và các cường quốc châu Âu và lấy căn cứ cho các đòi hỏi hiện tại về lãnh thổ của mình trên các mối quan hệ chư hầu tiền thuộc địa Ví dụ, từ năm 1992 và 2000 Trung Quốc và Việt Nam đàm phán biên giới  trên biển thuộc Vịnh Bắc Bộ. Căn cứ cho đòi hỏi chủ quyền của Việt Nam trong Vịnh này là hiệp ước 1887 giữa Pháp và Trung Quốc thiết lập đường biên giới hiện đại của Việt Nam. Tuy nhiên, Trung Quốc  không muốn công nhận tính hợp lệ của Hiệp định hoặc căn cứ  lịch sử của Việt Nam. Cuối cùng thì một hiệp ước cũng được thoả thuận, nhưng rõ ràng là quá không công bằng cho Việt Nam nên Hà Nội đã phải giữ các điều khoản bí mật trong nhiều năm. Cuối cùng một số điều khoản cũng bị rò rỉ ra ngoài, thổi bùng tình cảm dân tộc và đe dọa sự ổn định của chính phủ Việt Nam.

Vì mỗi quốc gia ở Đông Nam Á dẫn xuất các đường biên giới hiện nay của họ từ các hiệp ước và các hiệp định thời thuộc địa (kể cả Thái Lan, dù chưa bao giờ là một thuộc địa của châu Âu, nhưng đã kí hiệp ước biên giới với các đế quốc châu Âu), kinh nghiệm của Việt Nam sẽ được coi như là một cảnh báo cho bất kì nước ASEAN đang cố gắng đàm phán song phương với Trung Quốc. Tuy nhiên, không lâu sau khi Việt Nam kí kết hiệp ước biên giới, Tổng thống Gloria Macapagal Arroyo của Philippines kí một thỏa thuận thăm dò dầu mỏ với Trung Quốc năm 2004. Giống như Việt Nam, bà ta cũng đã cố giữ bí mật về các điều khoản nhưng không thành công. Phụ lục “A” bí mật trước đây đã cho thấy rằng các ranh giới mô tả bao gồm các diện tích rất lớn thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Trong tổng số gần 150 000 km vuông bao gồm trong thỏa thuận, khoảng 24 000 km vuông nằm trong lãnh hải trước đây chỉ do Philippines đòi hỏi chủ quyền. Khi các điều khoản của hiệp ước bí mật cuối cùng đã phô bày, tình cảm dân tộc một lần nữa bùng lên. Nhà xuất bản Amado Macasaet của tạp chí phổ biến và đáng kính Philippines tên Malaya , đã đi xa tới mức nói rằng Tổng thống Arroyo cần bị kết tội phản quốc vì đã kí kết các hiệp định mà ông cáo buộc là được thực hiện để đổi lấy các khoản vay  “có chủ ý cho hối lộ và tham nhũng.” Sau đó, ngay cả cựu Tổng thống Marcos cũng được ưa chuộng hơn Arroyo.

Đối với các thuộc địa cũ của Trung Quốc, có rất ít lí do để tin rằng chịu lép với Trung Quốc ở Biển Đông sẽ thoả mãn sự thèm khát lãnh thổ hoặc quyền bá chủ của họ.Trong trật tự thế giới theo Trung Quốc, Trung Quốc không phải là một nước trong một cộng đồng nhưng là đất nước văn minh lâu đời nhất trong số những nước thăng tiến. Chủ quyền của bất kì nước nào tột cùng cũng mắc nợ Trung Quốc và mức độ độc lập tuỳ thuộc vào sự đánh giá theo “lợi ích cốt lõi” của Bắc Kinh. Khi khẳng định “chủ quyền không thể chối cãi” của mình trên biển Đông, Bắc Kinh đang đặt xuống các cột mốc  như muốn nói: “Chúng tôi có thể giải quyết vấn đề này theo cách dễ dàng, hoặc theo cách khó khăn, nhưng đó sẽ là cách của Trung Quốc.”

QUAN ĐIỂM TRONG KHỐI ĐÔNG NAM Á

Lối ngoại giao tích cực của Mĩ tìm cách kết lại với nhau thành một “liên minh cân bằng” chống lại Trung Quốc chỉ có thể khẳng định sự ngờ vực của Trung Quốc về một chiến lược của Mĩ để kiềm chế Trung Quốc, trong khi đó, đồng thời, các hành động của Mĩ sẽ làm xa lánh các chính phủ Đông Nam Á. Các thủ đô ASEAN quan tâm tới Trung Quốc hơn là Washington, nhưng họ cũng rất dễ bị áp lực kinh tế và quân sự của Bắc Kinh và do đó miễn cưỡng kích động trả thùTrung Quốc. Lí tưởng nhất, ASEAN có Hải quân Hoa Kì hoạt động có hiệu lực trên Biển Đông để duy trì hòa bình, trong khi ASEAN sau đó phản bác ậm ờ bên lề và trấn an Trung Quốc rằng họ không có liên can gì hết. Tất nhiên, trí tuệ hơn ASEAN biết rằng họ phải làm tốt hơn như vậy. Thông hiểu quan điểm của các nước ASEAN là bước đầu tiên trong việc phát triển một chính sách cân bằng và thích hợp.

Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan thành lập ASEAN vào năm 1967 với mục tiêu đề ra là củng cố hòa bình và ổn định, nhưng mục tiêu quan trọng nhất là để đạt được sự chấp nhận của mỗi thành viên theo kiểu nguyên tắc Westphalian như “tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các quốc gia lẫn nhau.” Trong Chiến tranh lạnh, ASEAN tiếp tục phát triển như một công cụ ngoại giao làm rào cản cuộc đua tranh của các siêu cường vào trong khu vực. Sau khi Chiến tranh lạnh, ASEAN chiêu mộ thêm Brunei, Myanmar, Campuchia, Lào, và Việt Nam, và tập trung vào phát triển kinh tế. Trong thế kỉ 21, một lần nữa vấn đề an ninh lại giành quyền ưu tiên trên chương trình nghị sự của  ASEAN. Đầu tiên là khủng bố quốc tế và cướp biển đã lôi kéo sư hợp tác an ninh liên-ASEAN, và bây giờ sự trỗi dậy của Trung Quốc ngày càng đứng đầu chương trình nghị sự của cuộc thảo luận an ninh.

Viện dẫn mức gia tăng nhanh chóng gần đây trong chi tiêu quân sự ở Đông Nam Á, một số nhà phân tích dự đoán rằng các quốc gia này đã chuẩn bị cho cuộc đua tranh quân sự với Trung Quốc. Ví dụ, Viện nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm đã báo cáo rằng hàng vũ khí nhập khẩu cho Indonesia, Singapore và Malaysia tương ứng tăng 84 % , 146 % , và 722 % trong năm năm qua. Trong cùng một khung thời gian, ngân sách quốc phòng của Thái Lan đã tăng gấp đôi. Một số nhà phân tích cho rằng sự gia tăng rất lớn trong chi tiêu quốc phòng là một chỉ báo về sự quan ngại của Đông Nam Á trước mối đe dọa Trung Quốc. Thật không may, giống như nhiều hoạt động do chính phủ lãnh đạo ở Đông Nam Á, có rất ít chất liệu hơn so với dữ liệu thô cho thấy.

Ở Malaysia, chẳng hạn,việc mua sắm tiêu tốn hàng tỉ USD (thường được trích dẫn) các tàu ngầm của Pháp và các hệ thống vũ khí đắt tiền khác có lẽ dính dáng nhiều tới việc tham nhũng quá độ hơn là kế hoạch quốc phòng chiến lược. Trong thực tế, lịch sử của việc mua sắm vũ khí ở Malaysia có vẻ đè nặng với tham nhũng – một cách để trang sức lực lượng vũ trang của mình với các vũ khí mật độ thấp đắc tiền làm hậu cần thêm phức tạp mà chẳng có thêm giá trị chiến đấu.

Philippines, dễ bị Trung Quốc tấn công, an ninh quốc gia hi sinh cho chính trị trong nước.

Tại Thái Lan, sự gia tăng quân đội chỉ bắt đầu sau cuộc đảo chính của quân đội Hoàng gia Thái Lan năm 2006,  thiết lập một chính phủ lệ thuộc quân đội. Ngoài ra, mặc dù các vị tướng tán thành một chính sách quốc phòng thân Mĩ theo các quan chức khách Mĩ  (visiting US officials), việc mua sắm thiết bị của họ là từ một sự pha trộn không bình thường các công ti ngoài nước Mĩ. Theo quan điểm hậu cần một sự pha trộn thiết bị quân sự sẽ làm vịệc bảo quản  khó khăn và tốn kém, mặt khác, sử dụng các hảng cung cấp vũ khí nhỏ hơn ngoài nước Mĩ có thể cho quan chức Thái truy cập dễ dàng hơn để được lại quả.

Tại Philippines, nước Đông Nam Á chỉ đứng thứ hai so với Việt Nam về mức độ dễ bị Trung Quốc tấn công, an ninh quốc gia bị hi sinh cho chính trị trong nước. Kể từ ngày 11 tháng 9 Hoa Kì đã tham gia vào một nỗ lực lâu dài để cải thiện khả năng của lực lượng vũ trang Philippines. Tổng số trợ giúp của Hoa Kì tăng gấp ba lần từ khoảng USD 38.triệu năm 2001 lên gần USD 120 triệu năm 2010. Ngoài ra, không kể trong những đô la trợ giúp này là hàng triệu chi cho một loạt các cuộc tập trận mạnh mẽ Mĩ-Philippines đang diễn ra được thiết kế để cải thiện khả năng của lực lượng vũ trang Philippines. Thật không may, bất chấp những nỗ lực chân thành của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mĩ, chỉ có những cải thiện nhỏ trong quân lực Philippines (PAF).

Việc thiếu sự cải thiện này liên quan đến ngân sách quốc phòng suy giảm của Philippines. Khi sự trợ giúp của Mĩ tăng thì Quốc hội Philippines cắt giảm ngân sách quốc phòng bớt. Bên cạnh mối đe dọa Trung Quốc, Philippines cũng phải đối phó với nhiều cuộc nổi dậy bên trong, nhưng hầu hết các thiết bị của PAF đều thuộc thời chiến tranh Việt Nam và ngân sách quốc phòng hiện nay chỉ vào khoảng 1 %  GDP, hay khoảng USD 1,16 triệu trong năm 2009. Mặc dù, hoặc có lẽ vì trợ giúp hào phóng của Mĩ, nhiều chính trị gia Philippines, trong đó có Tổng thống mới đắc cử Benigno Aquino III, cảm thấy rằng họ được quyền hưởng nhiều hơn. Lờ đi sự đồng loã của mình trong cấp ngân sách thiếu thốn cho lực lượng an ninh Philippines, các chính trị gia này đang kêu gọi xem xét lại Hiệp định về Lực lượng khách (thỏa thuận cho phép sự hiện diện của quân đội Mĩ để giúp đào tạo PAF). Phản đối của họ là Mĩ không làm đúng mức để hiện đại hóa lực lượng vũ trang Philippines, và họ tưởng tượng Hiệp định về Lực lượng Tham quan như một công cụ để tận dụng to lớn hơn nữa trợ cấp quân sự Mĩ.

May mắn thay, bức tranh an ninh ở Đông Nam Á không phải tất cả là sự rẻ rung tài năng và sự lười biếng. Cả Việt Nam lẫn Indonesia đang thực hiện những việc mua sắm vũ khí đáng kể tập trung vào việc củng cố an ninh quốc gia của họ. Ngoài ra, sau nhiều thập kỉ đầu tư khôn ngoan, lực lượng vũ trang của Singapore đang ở đẳng cấp thế giới và đến nay là mạnh nhất trong ASEAN.

Tổng số lực lượng không quân và hải quân của ASEAN đang tăng tác động, nhưng họ không đủ để đánh bại quân đội hùng mạnh của Trung Quốc.

Trên giấy tờ, tổng số lực lượng hải quân và không quân của ASEAN đang tăng tác động, ASEAN đã nâng cấp một đội bay gồm 680 máy bay chiến đấu cánh cố định, 412 tàu chiến đấu, và 8 tàu ​​ngầm trong lực lượng hải quân kết hợp. Những con số này chưa đủ để đánh bại Quân đội nhân dân Giải phóng mạnh mẽ, với 2 300 máy bay chiến đấu, 65 tàu ngầm, và 256 tàu chiến đấu, nhưng họ đủ để hoạt động như một rào cản một khi có một ý hướng  phòng thủ chung. Thật không may, ASEAN không phải là NATO: không có quốc gia nào ở Đông Nam Á là bị hiệp ước ràng buộc để trợ giúp một nước khác trong trường hợp bị tấn công, và chỉ có một ít nỗ lực bản địa đơn lẻ để phối hợp các hoạt động quân sự.

Indonesia là quốc gia lớn nhất Đông Nam Á, chiếm 40 % dân số của khu vực, nó có nền kinh tế lớn nhất và một nền dân chủ đang phát triển. Quan điểm của Indonesia về hoạt động của Trung Quốc phản ánh tầm nhìn của Jakarta của chính nó như là một nhà lãnh đạo chính thức của ASEAN. Phát biểu tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế ở Washington, DC, Bộ trưởng ngoại giao của Indonesia Marty Natalegawa nói: “Đối với các thành viên của ASEAN, cái đáng lo ngại hơn là khả năng rằng Biển Đông có thể là một nơi diễn chính của sự kình địch có thể xảy ra.”  Mục tiêu của Indonesia, và mở rộng ra cũng của cả ASEAN, là làm cân bằng Hoa Kì chống lại Trung Quốc để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và độc lập của họ.

Chính phủ Việt Nam nhận thức Trung Quốc không có gì khác hơn là một mối đe dọa sống còn, môt sự lo lắng được xác nhận bởi kinh nghiệm lịch sử. Lịch sử ghi chép của Việt Nam có cách đây 2 700 năm. Trung Quốc chiếm đóng đất nước trong hơn một ngàn năm trong những năm lịch sử đó và Hà Nội là đối tượng của một tình trạng triều cống nặng nề trong hầu hết các phần còn lại của lịch sử của nó. Mặc dù có nhiều cuộc chiến tranh lâu dài và khó khăn với Trung Quốc, Hà Nội chỉ được hưởng độc lập thực sự một số giai đoạn ngắn ngủi

Kinh nghiệm của Hà Nội vớiTrung Quốc  hậu đế chế là sự coi thường thường xuyên của nước này đối với chủ quyền và độc lập của Việt Nam. Năm 1979, để trừng phạt Hà nội về những chính sách mà Bắc Kinh không ưa, Trung Quốc tấn công Việt Nam và chiếm đóng trong thời gian ngắn một số phần đất nước này. Ngoài ra, Hải quân nhân dân giải phóng (PLA) Trung Quốc trong nhiều dịp đã tấn công và đánh chìm tàu ​​thuyền của hải quân Việt Nam hoạt động chỉ ngay ngoài bờ biển miền Nam Việt Nam và cách xa hàng trăm dặm từ bờ biển của Trung Quốc; binh lính của Trung Quốc đồn trú các đảo nhỏ và đảo san hô bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; tàu hải quân PLA thường xuyên sách nhiễu, bắt giữ ngư dân Việt Nam; và Bắc Kinh cản trở những nỗ lực của Hà Nội khai thác các nguồn tài nguyên khí đốt tự nhiên ngay bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, Hà Nội cẩn thận không dám chọc giậnTrung Quốc và tiếp tục tìm kiếm quan hệ tốt với Bắc Kinh.

Kinh nghiệm của Hà Nội với Trung Quốc sau đế chế là sự coi thường thường xuyên của nước này đối với nền độc lập của Việt Nam.

Mặc dù Singapore không là một phía trong tranh chấp lãnh hải ở biển Đông, và 75 % dân số là người gốc Trung Quốc, quan điểm của Singapore về Trung Quốc trổi dậy chứng minh quy tắc của ASEAN là ngờ vực các ý đồ của Trung Quốc. Singapore là một đất nước đa sắc tộc, nhưng phần lớn dân số là con cháu của những di dân Trung Quốc, chủ yếu là những người lao động đưa tới trong thời gian cai trị của Anh. Do dân số nhập cư và thành công kinh tế, một số nước trong khu vực phẫn nộ Singapore và thường phát biểu sự nghi ngờ về lòng trung thành của nước này. Mặc dù trong nhiều thập kỉ Singapore đã xây dựng những liên kết kinh tế mạnh mẽ với Trung Quốc, nhưng phải đợi cho đến năm 1990 nước này mới mở quan hệ chính thức với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa – đó là nước cuối cùng trong ASEAN làm như vậy. Singapore tiếp tục các liên kết kinh tế mạnh mẽ đó, nhưng tình hình căng thẳng gần đây của Trung Quốc đã buộc Singapore tuyên bố chỗ đứng của mình.

Để trấn an các nước láng giềng (và thông báo cho Trung Quốc) rằng Singapore không phải là một tỉnh của Trung Quốc, Thủ tướng Singapore Lí Hiển Long, vào dịp lễ kỉ niệm Quốc Khánh tháng 8 năm 2010, đã thực hiện một điểm mô tả độc đáo về bản sắc văn hoá độc đáo của Singapore, bao gồm cả việc thừa nhận tiếng Anh như ngôn ngữ quốc gia và ẩm thực đặc sắc của Singapore. Để nhấn mạnh thông điệp này, ngày 06 Tháng Chín năm 2010, xã luận của tờ Straits Times, tờ báo quốc gia của Singapore và phát ngôn của chính phủ, nhấn mạnh rằng người dân Singapore không phải người Trung Quốc ở nước ngoài, nói rằng, “từ ngữ  ‘người Trung Quốc ở nước ngoài’ gây nhức nhối người dân Singapore thuộc tất cả các chủng tộc bởi vì nó hàm ý rằng người Trung Quốc ở Singapore theo cách nào đó ‘ở nước ngoài’, ngăn cách với ‘đại lục’. Nó có lẽ cũng ngụ ý một mong muốn là sẽ ‘trở về ‘một ngày nào đó. Trong thực tế, hầu hết người Singapore ở đây không phải là ‘ở nước ngoài.’ Họ có gốc gác ở đây.” Trong xã luận khác mùa hè vừa qua tờ Straits Times thận trọng chấp nhận cách tiếp cận mới của Washington về Biển Đông và cảnh báo Bắc Kinh rằng “hành động của họ sẽ được theo dõi chặt chẽ về những gì họ nói về sự trổi đây hoà bình thành của cường quốc đang phát triển này. ‘

Mối quan tâm lớn nhất của Singapore về các chính sách mới của Mĩ không phải là sợ hãi việc khiêu khích Trung Quốc mà là tính hay thay đổi trong chính sách đối ngoại của Mĩ, một quan điểm phản ánh vị thế cả ASEAN rộng lớn hơn. Theo quan điểm của ASEAN, mặc dù nhiều thập kỉ với các đòi hỏi mạnh mẽ của Trung Quốc cùng với các hành động phô trương quân sự, Mĩ vẫn “giữ kẽ ” về  vụ tranh chấp; dường như không biết hoặc không quan tâm đến sự hám lợi của Bắc Kinh trong Biển Đông và các tác động đối với khu vực và toàn cầu. Ví dụ, khi Philippines, một đồng minh theo hiệp ước của Mĩ, phát hiện một cài đặt hải quân Trung Quốc trên Mischief Reef, Washington đã không chia sẻ sự phẫn nộ của Manila và đứng ngoài vụ tranh chấp, ngay cả khi Trung Quốc tiếp tục mở rộng và bàh trướng sự hiện diện của họ.

Nhưng các nước ASEAN là đi nước đôi về cả Mĩ lẫn Trung Quốc. Họ yêu cầu sự trợ giúp và sự hiện diện trước sau như một của Mĩ để cân bằng với Trung Quốc. Đồng thời, nhiều nước ASEAN cũng không muốn cho Mĩ truy cập quá nhiều vì sợ ảnh hưởng đến chủ quyền của họ. Các nước ASEAN lo ngại sức mạnh quân sự và ý đồ chính trị của Trung Quốc , nhưng họ chào đón đầu tư của Trung Quốc và các cơ hội kinh doanh tại thị trường rộng lớn củaTrung Quốc.

Cuối cùng, các nước ASEAN còn xa để thống nhất trong quan điểm của họ về Trung Quốc như một mối đe dọa. Bốn trong số mười quốc gia của ASEAN là Myanmar, Campuchia, Lào và Thái Lan không phải là một bên trong tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông. Chính quyền quân sự Miến Điện, một chế độ ha đẳng quốc tế, xếp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một trong số ít các chính phủ thân thiện với nước này và sẽ miễn cưỡng bảo vệ các đối tác ASEAN chống lại sự xâm lấn của ông chủ của Miến Điện. Thái Lan đang ngập sâu trong phân li về chính trị và khó có thể tham gia vào một sự phòng vệ chung. Hơn nữa, tinh hoa của Thái Lan rất tự hào về chính sách ngoại giao linh hoạt kiểu “tre” của Thái Lan và thấy không có lí do để không uốn cong theo gió từ Trung Quốc. Hoàng gia ở cả Thái Lan và Campuchia ở trên những điều kiện thân thiện với chính phủ Trung Quốc. Cuối cùng, thủ tục quyết định sự đồng thuận của ASEAN có nghĩa là Bắc Kinh chỉ cần một lá phiếu bất đồng là tránh được sự chỉ trích của ASEAN.

TIẾN LIÊN….

Các quốc gia Đông Nam Á sử dụng ASEAN để tạo ra một hàng rào ngoại giao xung quanh khu vực. Tuy nhiên, như các sự kiện gần đây cho thấy, một Trung Quốc đang trổi dậy đang đẩy ngược ranh giới đó và ASEAN hiện đang mong muốn sự hiện diện của Hoa Kì tăng lên để cân bằng sự lấn át của Trung Quốc. Thực tế khắc nghiệt là ngay cả các hiệp ước an ninh có bọc thép và sự hiện diện của các tàu chiến Mĩ cũng không đủ để bảo vệ các nước Đông Nam Á nếu họ không sẵn sàng để tự vệ. Các nước ASEAN phải hành động một cách riêng lẻ lẫn tập thể để tạo ra rào cản có thực chất trước sự xâm lấn của Trung Quốc. Trích dẫn từ nhà thơ Robert Frost, “hàng rào tốt tạo hàng xóm tốt”, và ASEAN thiếu sức mạnh thể chế, sự cố kết và sự thống nhất về mục đích để xây dựng một hàng rào tốt.

Trung Quốc gây ra mối đe dọa quân sự đáng kể và hiện hành, nhưng sự trợ giúp của Mĩ bắt đầu với một sự tích tụ của quân đội ASEAN là tương tự như xây dựng một ngôi nhà bằng cách bắt đầu với mái nhà. Các ưu tiên hàng đầu phải để cho từng quốc gia riêng lẻ xây dựng một nền móng cho ngôi nhà đó bằng cách làm sạch hệ thống pháp luật của họ và giảm tham nhũng. Ngoại trừ Singapore, tất cả các nước trong ASEAN là bị ảnh hưởng với hệ thống pháp luật tham nhũng sâu sắc. Tham nhũng tư pháp là cực kì không được lòng dân, ở Indonesia được biết đến là “mafia tư pháp”, và trợ giúp của Mĩ trong cuộc chiến chống nó sẽ được hoan nghênh. Mĩ có một số chương trình, đặc biệt là Sở Tư pháp và An ninh Nội địa, có thể trợ giúp các nổ lực  cải cách tư pháp bản địa và cần được ưu tiên hàng đầu cho việc trơ giúp cho khu vực.

Cải thiện đáng kể trong hệ thống pháp luật của ASEAN và tăng trưởng trong nền kinh tế của nó phải đến trước khi tăng sức mạnh quân sự.

Ưu tiên thứ hai cho việc xây dựng ngôi nhà ASEAN là các bức tường và các cột chống kinh tế sẽ chống đỡ lên tới các mái nhà. ASEAN đã có những tiến bộ trong việc nới lỏng hạn chế thương mại liên – ASEAN, nhưng khối này phải tiếp tục mở rộng những nỗ lực đó, và các nước này phải cải cách nền kinh tế nội bộ của họ để cho phép tăng trưởng kinh tế. Một lần nữa, Mĩ có nhiều bộ, ban và các cơ quan đó có thể và nên trợ giúp phát triển kinh tế ở Đông Nam Á. Đặc biệt, Đại diện Thương mại Mĩ có thể thương lượng một thỏa thuận tăng cường thương mại giữa Mĩ và ASEAN, có lẽ theo mô hình hiệp định thương mại Mĩ-Việt Nam, hiệp định này đã làm rất nhiều để trợ giúp các cải cách kinh tế của Việt Nam.

Ở Đông Nam Á, trong một thời gian Mĩ có thể cung cấp một lá chắn an ninh cho các nước ASEAN, nhưng sự quan tâm đó không phải trở thành một nghĩa vụ không đáy.Trợ cấp an ninh, như trợ cấp phúc lợi, thương mại, hoặc công nghiệp, có thể trở nên những quyền đươc hưởng tốn kém và cuối cùng có thể thúc đẩy hành vi đi ngược với ý định ban đầu của trợ cấp.

Nếu có sự cải thiện đáng kể trong hệ thống pháp luật và tăng trưởng trong nền kinh tế thì sức mạnh quân sự gia tăng sẽ đi theo sau một cách tự nhiên. Giảm bớt gánh nặng trong việc mua sắm hệ thống vũ khí mà việc sử dụng thực tế của nó chỉ làm giàu các nhà chính trị hoặc là các tướng lãnh sẽ làm tăng đáng kể khả năng quân sự mà không tốn kém thêm xu nào. Hơn nữa, cùng với các nến kinh tế quốc gia lớn hơn và mạnh mẽ hơn, quân đội khu vực sẽ đạt được nhiều nguồn lực hơn cho hiện đại hoá mà không làm tăng gánh nặng lên người nộp thuế. Lầu Năm Góc đã có các chương trình trợ giúp mạnh mẽ về quân sự trong khu vực, và các quân đội quốc gia đã cải thiện có thể tận dụng sự trợ giúp này của Mĩ.

Về mặt ngoại giao, ASEAN nên bắt đầu thương lượng liên ASEAN về biên giới nội bộ. Bắt đầu tiến trình này có thể buộc Trung Quốc đòi tham gia vào tiến trình đa phương, cho phép ASEAN xây dựng các điều khoản cho các cuộc đàm phán. Thậm chí nếu Bắc Kinh không tham gia, một thỏa thuận biên giới ASEAN sẽ phức tạp đường lối ngoại giao của Trung Quốc và làm hỏng việc đe doạ song phương của họ.

Về mặt quân sự, ASEAN cần bắt đầu tiến trình cải thiện khả năng quốc phòng để tiến hành phòng vệ quân sự chung. Xây dựng từ các bước nhỏ đã bắt đầu – chống khủng bố xuyên quốc gia, trấn áp cướp biển, và cung cấp cứu trợ thiên tai – quân đội ASEAN sẽ bắt đầu tìm kiếm cơ hội để cải thiện khả năng của mình để thực hiện các hoạt động liên minh..Các mục tiêu đề ra của ASEAN về ngoại giao và chính trị là để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia thành viên. Xây dựng một rào chắn quân sự tập thể để bảo vệ những mục tiêu này chống lại mọi kẻ thù có thể có không phải là một hoạt động chống Trung Quốc.

Cuối cùng, không phải là mục đích của bài viết này lập luận rằng Bắc Kinh nhất thiết sẽ thực thi các đặc quyền khi xưa của họ, nhưng đúng hơn là tư tưởng “Hoa vi trung” là cơ sở lịch sử mà từ đó các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ nhìn thế giới. Bắc Kinh phải được thuyết phục để trở thành một thành phần kết dính vào mô hình Westphalian. Cựu Thứ trưởng Ngoại giao Robert Zoellick thường phát biểu rằng Trung Quốc cần trở nên một “kẻ trong cuộc” nhiều hơn nữa trong hệ thống quốc tế và rằng mục tiêu đó cần phải duy trì là mục tiêu dài hạn của chính sách của Mĩ. Trong nửa sau của thế kỉ 20, Trung Quốc hưởng rất nhiều lợi ích từ sự bảo vệ vốn có của mô hình Westphalian về một nhà nước-quốc gia và hệ thống quốc tế rộng lớn hơn. Bây giờ Trung Quốc đã đủ lớn để ảnh hưởng đến trật tự thế giới, Trung Quốc không được phép thiết lập một cấu trúc tầng với Trung Quốc đòi hỏi quyền lớn hơn các nước khác.

Các nhà hoạch định chính sách ở Washington phải nhớ rằng Trung Quốc hiện đang không phải là mối đe dọa cho bất cứ nước nào. Mặc dù có tiềm năng đáng kể cho một cuộc đụng độ Mĩ-Trung Quốc, Đường lối ngoại giao tốt ở Washington và sự trưởng thành chính trị lớn mạnh ở Bắc Kinh có thể ngăn ngừa bất kì cuộc đối đầu như vậy. Cách tốt nhất để đạt được mục tiêu này là gán Trung Quốc vào các tổ chức dựa trên luật lệ và sau đó nhấn mạnh rằng Bắc Kinh phải tuân thủ những luật lệ này . Hiệp ước về biển quan trọng nhất toàn cầu là UNCLOS, nhưng Mĩ vẫn chưa phê chuẩn hiệp ước đó và do đó có ít sức mạnh để ảnh hưởng đến việc thực hiện hiệp ước hơn so với Trung Quốc. Cách duy nhất đối với Mĩ để có được một chỗ ngồi tại bàn UNCLOS là phê chuẩn UNCLOS và tham gia các uỷ ban khác nhau hướng dẫn thi hành hiệp ước này.

Lợi ích của Mĩ trong việc duy trì tự do hàng hải ở Biển Đông và các vùng biển tranh chấp khác cần được bảo vệ bằng ngoại giao hỗ trợ bởi sức mạnh quân sự. Mĩ không phải nao núng hay thỏa hiệp, bởi vì bất kì nhượng bộ tạm thời nào cho những đòi hỏi không hợp lí rõ rệt của Trung Quốc sẽ không kiếm được lòng biết ơn, mà thay vào đó sẽ trở thành một tiền lệ cho các đòi hỏi tương lai của Trung Quốc. Bằng ngoại giao và quân sự, Washington phải tiếp tục triển khai lực lượng đủ để ngăn cản tham vọng lãnh thổ không biện minh được củaTrung Quốc.
D. D.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét