Chuyện gì sẽ xẩy ra ?
Đài RFI ngày 7.11.2011 đã tường thuật lại lời của Giáo Sư Ngô Vĩnh Long, một người nghiên cứu về Biển Đông ở Đại Học Main, Hoa K ỳ, báo động về việc Trung Qu ốc đang tung “học giả” đi tuyên truyền cho chủ quyền của họ tại Biển Đông, đồng thời phản bác quan điểm của các nước khác, trong đó có Việt Nam. Lập trường của họ tuy không có cơ sở, nhưng dễ bị ngộ nhận là đúng nếu không có người phản biện. Ông cho biết trong
cuộc hội thảo với chủ đề “Hòa bình ở Châu Á – Thái Bình Dương” tại Đại Học Main trong hai ngày 21 và 22.10.2011 vừa qua, quy tụ nhiều học giả đến từ các nước Á Châu, Theo Giáo Sư Long, các nhân vật này đã khẳng định 3 điều phi lý như sau:
1.- Việt Nam không có, hay là chưa có vùng kinh tế đặc biệt từ thềm lục địa trở ra;
2.- Đường chữ U ra đời từ năm 1947, trong lúc Luật Biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) chỉ mới có từ năm 1982, nên không thể áp dụng cho tranh chấp Biển Đông;
3.- Việt Nam đã ký kết với Trung Qu ốc nguyên tắc chỉ giải quyết tranh chấp Biển Đông một cách song phương mà thôi.
Giáo Sư Long cho biết ông đã đứng lên bác bỏ tất cả quan quan điểm sai trái nói trên của Trung Qu ốc. Sau khi ông nói, nhiều người Mỹ đã nói với ông: “Ồ, nếu mà không có anh, thì chúng tôi không hiểu vấn đề gì hết. Những điều anh vừa nêu lên, về những việc mà Trung Qu ốc đã và đang làm trong khu vực, làm chúng tôi rất là bối rối!”
Giáo sư Ngô Vĩnh Long đã cảnh báo về chiến dịch tuyên truyền của Trung Qu ốc về chủ quyền của họ ở Biển Đông, nhưng chúng tôi thấy đây không phải là vấn đề quan trọng, vì các lập luận của Trung Qu ốc đưa ra đều đã bị các chuyên gia quốc tế bác bỏ hết rồi. Có hai vấn đề quan trọng mà chúng ta phải quan tâm: Vấn đề thứ nhất là có nhiều dấu hiệu cho thấy Trung Qu ốc đang tăng cường sức mạnh để có thể làm chủ Biển Đông như Hoa K ỳ đang dùng sức mạnh để làm chủ vùng dầu lửa Trung Đông và Bắc Phi. Tại sao Hoa K ỳ làm được mà Trung Qu ốc không có quyền làm? Vấn đề thứ hai là phản ứng của Hoa K ỳ và các nước ASEAN.
Người Việt hải chống cộng thường gọi Hoa K ỳ là Anh Hai Ch ống Cộng và Anh Hai Nhân Quy ền, chuyện gì cũng đi mách Anh Hai. Nhưng Anh Hai còn đóng một vai trò khác mà người Việt chống cộng không muốn nói ra, đó là Anh Hai Bán Nư ớc! Anh Hai không bán nước Mỹ mà bán nước của người khác vì quyền lợi của nước Mỹ. Đây là vấn đề mà các nước Đông Nam Á đang quan tâm.
Vậy trước hết, chúng tôi xin nói qua về những nguỵ luận của Trung Qu ốc và những chuẩn bị của Trung Qu ốc để làm chủ Biển Đông, sau đó sẽ nói đến thái độ của các nước ASEAN và Hoa K ỳ: Liệu rồi Trung Qu ốc có được dành cho độc quyền một phần Biển Đông hay không?
CHUYỆN CHÀY CÃI CỐI
Tôi thấy trong hai cuộc hội thảo ở Washington và Manila vừa qua, đại diện của Trung Qu ốc đã không đưa ra những lý luận khờ khạo như Giáo Sư Ngô Vĩnh Long đã nói, mà chơi trò “đánh lận con đen”. Nhưng thủ đoạn của họ đã không lừa được ai.
1.- Cuộc hội thảo tại Washington
Trong cuộc hội thảo tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế ở Washington từ ngày 20 đến 21.6.2011, đại diện của Trung Qu ốc là Giáo sư Su Hao, Phó giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Tế thuộc trường đại học ngoại giao Trung Qu ốc, đã đưa ra hai căn cứ pháp lý để chứng minh quyền sở hữu Biển Đông của Trung Qu ốc: Thứ nhất là dựa vào lý thuyết “quyền sở hữu lịch sử” (historic title) được nói đến trong bản án ngày 18.12.1951 (Anh chống Na Uy về vùng đánh cá) của Tòa Án Quốc Tế để chứng minh vùng nước nằm trong vùng lưởi bò là “vùng nước lịch sử” (historic water) của Trung Qu ốc. Thứ hai là dựa vào một nguyên tắc ấn định trong luật “Corpus Juris Civilis” của La Mã vào thế kỷ thứ 6, để chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Qu ốc. Luật này quy định rằng “Một hải đảo nổi lên ở biển là vật vô chủ (nó không thuộc về ai) và vì thế nó trở thành tài sản của người chiếm hữu đầu tiên”. Nhưng hai căn cứ lý luận này đã bị các chuyên gia bác bỏ: Thứ nhất, Công Ước LHQ về Luật Biển năm 1982 không công nhận “vùng nước lịch sử” và “quyền sở hữu lịch sử”. Thứ hai là Trung Qu ốc chỉ xác định chứ không chứng minh được “quyền sở hữu chấp hữu” (possession title) về các hoang đảo trên Biển Đông theo đúng điều kiện luật định, nên không có giá trị. Trung Qu ốc câm họng.
2.- Cuộc hội thảo tại Manila
Cuộc hội thảo ngày 17.10.2011 tại Manila do Quỹ Hòa bình và Phát triển của Philippines và Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore phối hợp tổ chức, nhằm «làm sáng tỏ toàn bộ các vấn đề liên quan đến Biển Đông» và «giúp các chính phủ đối thoại chính thức với nhau». Trong cuộc hội thảo này, ông Trần Sỹ Cầu, Giáo sư tại Đại học Ngoại giao Trung Qu ốc, tiếp tục dựa vào quy tắc “hải đảo nổi lên ở biển” (Insula in mara nata) của luật La Mã xưa, chứng minh rằng Trung Qu ốc là nước đầu tiên khám phá ra vùng quần đảo Trường Sa, đã đến cư trú và phát triển khu vực đó từ thế kỷ thứ 16, 17, nên «Trường Sa đã trở thành vùng lãnh thổ không thể tách rời của Trung Qu ốc từ thời đó".
Dĩ nhiên, quan điểm này cũng bị các chuyên gia bác bỏ như trong cuộc hội thảo tại Washington.
3.- Cuộc hội thảo tại Đại Học Main
Căn cứ theo lời tường thuật của Giáo Sư Ngô Vĩnh Long đã dẫn trên, chúng ta thấy các lập luận của Trung Qu ốc để chứng minh quyền sở hữu Biển Đông của họ có thể bị bác bỏ một cách dễ dàng.
Thứ nhất, Trung Qu ốc nói Việt Nam không có, hay là chưa có vùng kinh tế đặc biệt từ thềm lục địa trở ra. Lập luận này hoàn toàn sai. Điều 57 của Luật Biển quy định vùng đặc quyền kinh tế (exclusive economic zone) của mỗi quốc gia là 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Việt Nam khi gia nhập Luật Biển đương nhiên được hưởng vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Chỉ khi nào Việt Nam muốn nới rộng thềm lục địa ra trên 200 hải lý mới phải trình LHQ chấp thuận. Tuy nhiên, nếu có tranh chấp về thêm lục địa thì LHQ không giải quyết. Như vậy quyền có một vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý là quyền đương nhiên.
Thứ hai, Trung Qu ốc nói đường chữ U ra đời từ năm 1947, trong lúc Luật Biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) chỉ mới có từ năm 1982, nên không thể áp dụng cho tranh chấp Biển Đông. Đây là một hình thức ngụy biện. Trên nguyên tắc, các nước trên thế giới khi gia nhập Công Ước LHQ về Luật Biển năm 1982 thì phải áp dụng công ước này. Những quy định trước đó trái với Công Ước đều phải điều chỉnh lại cho đúng với Công Ước. Trung Qu ốc đã ký vào Công Ước LHQ ngày 10.12.1982 và phê chuẩn Công Ước ngày 7.6.1996, nên kể từ ngày đó phải tuân theo Công Ước LHQ và được hưởng những quyền lợi do Công Ước quy định như lãnh hải 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, thềm lục địa, v.v. Trung Qu ốc cũng đã dùng Công Ước LHQ để yêu cầu Việt Nam phân chia lại Vịnh Bắc Bộ theo Công Ước này, vì Công Ước ký với Pháp ngày 26.6.1887 bất lợi cho Trung Qu ốc. Việt Nam đã phê chuẩn Công Ước LHQ vào ngày 25.7.1994 nên cũng đã chấp nhận phân chia lại Vịnh Bắc Bộ với Trung Qu ốc theo Công Ước LHQ.
Thứ ba, Trung Qu ốc cho rằng Việt Nam đã ký kết với Trung Qu ốc nguyên tắc chỉ giải quyết tranh chấp Biển Đông một cách song phương mà thôi.
Thỏa ước ngày 11.10.2011 giữa Trung Qu ốc và Việt Nam có quy định:
“Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.”
Như vậy, dù giải quyết song phương hay đa phương, Trung Qu ốc vẫn phải tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công Ước LHQ về Luật Biển năm 1982 mà hai bên đã phê chuẩn.
Dĩ nhiên khi đưa ra những lời tuyên bố nói trên, các đại diện của Trung Qu ốc thừa biết họ chỉ “cãi chày cãi cối” hay ngụy biện và sẽ không được chấp nhận, nhưng họ vẫn nói. Tại sao?
TRUNG QUỐC MUỐN GÌ?
Mọi người đều biết trước khi Mỹ và các nước NATO mở cuộc tấn công vào Libya, Trung Qu ốc đã ký hợp đồng khai thác dầu lửa và xây dựng các cơ sở hạ tầng cho Libya. Trung Qu ốc đã đưa vào Libya nhiều công ty và khoảng 30.000 chuyên viên và nhân công. Thế nhưng hôm 17.3.2011, khi HĐBA LHQ thông qua Nghị quyết 1973 thiết lập vùng cấm bay và cho phép sử dụng vũ lực đối với chính quyền của Gaddafi, Trung Qu ốc đã bỏ phiếu trắng, mặc dầu Trung Qu ốc có quyền phủ quyết. Sau đó, Trung Qu ốc đã cho rút nhanh các công ty, các chuyên viên và nhân công của họ ra khỏi Libya.
Đối với Syria, Trung Qu ốc lại hành động khác, mặc dầu ở Syria Trung Qu ốc chưa có quyền lợi gì cả. Ngày 4.10.2011, Trung Qu ốc và Nga đã dùng quyền phủ quyết để bác bỏ Nghị quyết của HĐBA LHQ “lên án những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng có tính hệ thống của chính quyền Syria”. Ông Li Baodong , Đại sứ Trung Qu ốc tại LHQ nói: “Cộng đồng quốc tế nên tôn trọng một cách đầy đủ chủ quyền, độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ của Syria”.
Vì thái độ nghịch lý nói trên, nhiều người nghi ngờ đã có sự đổi chác giữa Hoa K ỳ và Trung Qu ốc về các vùng mà Hoa K ỳ và Trung Qu ốc được độc quyền chiếm đóng để bảo vệ quyền lợi của họ, nên Trung Qu ốc mới để yên cho Mỹ hành động ở Libya. Sự chuẩn bị lực lượng và thái độ ngược ngạo của Trung Qu ốc trong thời gian gần đây khiến nhiều người tin rằng Trung Qu ốc đang chuẩn bị để làm chủ Biển Đông.
PHẢN ỨNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC ASEAN
Trước sự chuẩn bị và thái độ ngang ngược của Trung Qu ốc, một số nước ASEAN hình như đã “ngửi” được chuyện gì sắp xẩy ra.
Ngày 13.11.2011, nhiều website đã lặp lại một bản tin đã được các báo trong nước phổ biến vào tháng 6 vừa qua nói rằng nếu chiến tranh xẩy ra ở Biển Đông, Đài Loan sẽ đứng về phía Trung Qu ốc. Bản tin nhắc lại lời tuyên bố của Thiếu tướng Doãn Thịnh Tiên, người đứng đầu hải quân Đài Loan tại khu vực Thái Bình Dương, trong một cuộc phỏng vấn: “Nếu xảy ra xung đột bằng quân sự giữa Trung Qu ốc đại lục và Philippines thì quân đội Đài Loan đóng ở Thái Bình Dương sẽ ra tay trợ giúp quân đội của Trung Qu ốc đại lục”. Theo ý kiến của ông, trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy, quân đội của Trung Qu ốc và Đài Loan nên hợp thành một “liên minh quân sự”.
Bản tin RFA ngày 28.10.2011 do phóng viên Thanh Trúc từ Bangkok cho biết trong một bài xã luận dưới tựa đề “Thân cận với Mỹ mà không chọc giận Trung Qu ốc”, đăng trên nhật báo Anh ngữ Bangkok Post phát hành tại Thái Lan, Giáo sư Amitav Acharya, Chủ tịch Trung Tâm Nghiên Cứu Châu Á, phân khoa Quan Hệ Quốc Tế thuộc American University ở Hoa K ỳ, cho rằng có thể nói một cách rõ ràng Hoa K ỳ và Trung Qu ốc đang là hai yếu tố quyết định tương lai của khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Theo giáo sư Amitav Acharya, từ trước đến nay ASEAN có vẻ yên ổn và hài lòng trong quan hệ với cả Hoa K ỳ lẫn Trung Qu ốc. Thế nhưng từ lúc Trung Qu ốc khởi sự thái độ hay cung cách gọi là “hành xử nước lớn” hai năm nay trên vùng biển mà Bắc Kinh gọi là Nam Trung Hoa , các quốc gia ASEAN không ít thì nhiều phải tự đặt lại vấn đề về tương quan của mình với nước láng giềng khổng lồ này. Ông đặt câu hỏi: “Sự thân thiện mà Hoa K ỳ muốn chứng tỏ đối với ASEAN liệu có phải là câu trả lời hay giải pháp dài hạn để giải quyết thái độ nước lớn của Trung Qu ốc đối với tổ chức này không?”
Ông cho biết ông K. Shanmugham , Ngoại trưởng Singapore, cho rằng khi hành pháp Obama đề cao chính sách gọi là thân thiện trở lại vùng Đông Nam Á, thì Washington cũng phải chứng minh được tầm quan trọng khi gắn bó với khu vực, Mỹ nên can thiệp vào Đông Nam Á bằng tinh thần trách nhiệm, bằng chủ trương rõ ràng và minh bạch. Ông khẳng định rằng nếu thiếu những điều kiện đó, Hoa K ỳ đừng trách các nước trong khu vực phải tự tính toán lấy số phận của họ, nghĩa là ngã sang Trung Qu ốc để tìm sự yên thân.
Còn ông Marty Netalegawa , Ngoại trưởng của Indonesia, nói rằng ASEAN tuyệt đối phải biết dung hòa, nghĩa là đừng tỏ vẻ cầu cạnh Mỹ quá đáng bởi điều này sẽ củng cố thêm nỗ lực tuyên truyền chỉ trích lâu nay từ phía Bắc Kinh rằng Hoa K ỳ là một thế lực ngoại bang không thể can thiệp vào nội tình biển Nam Trung Hoa được.
Ông cho rằng Hàng Không Mẫu Hạm đầu tiên của Trung Qu ốc mua lại của Liên Xô cũ, đang neo đậu tại cảng Đại Liên, không nằm trong việc mời gọi Hoa K ỳ giúp cân bằng thế lực quân sự với Trung Qu ốc mà là tìm cách phát triển cùng nới rộng mối quan hệ với cả Hoa K ỳ lẫn Trung Qu ốc.
Theo giáo sư Amitav Acharya, đó là những nguyên tắc trọng yếu hầu duy trì tư thế mà Indonesia gọi là trạng thái quân bình hữu hiệu giữa các cường quốc thế giới tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Giáo sư Acharya nói rằng Hoa K ỳ cần nghe ngóng thật cẩn trọng bởi đang có sự suy nghĩ khác nhau về vai trò của Mỹ trong việc bắt tay với ASEAN, cũng như đang có những quan điểm khác biệt giữa các thành viên chủ chốt của ASEAN về phương cách ứng xử của Hoa K ỳ trong khu vực.
Giáo sư Acharya khuyến cáo ASEAN cũng cần phải thận trọng khi tìm kiếm hậu thuẩn của Hoa K ỳ đến mức độ nào.
ĐƯỜNG LỐI CỦA MỸ?
Trong thời gian gần đây, để làm an lòng Philippines và các nước ASEAN, Hoa K ỹ thường nói lên vai trò quan trọng của Hoa K ỳ ở Đông Nam Á và Biển Đông. Tạp chí Foreign Policy tháng 11 đã đăng một bài của bà Ngoại trưởng Hoa K ỳ Hillary Clinton với tựa đề: “Thế Kỷ Thái Bình Dương của Hoa K ỳ” (America’s Pacific Century) nói về chính sách đối ngoại của Hoa K ỳ tại khu vực Á Châu Thái Bình Dương. Bà xác định: “Khu vực Á Châu Thái Bình Dương đã trở thành một động lực chính của nền chính trị toàn cầu... Cũng giống như Á Châu rất quan trọng cho tương lai nước Mỹ, sự tham dự của Hoa K ỳ rất quan trọng cho tương lai Á Châu.” Riêng với Trung Qu ốc, bà cho rằng sự hợp tác giữa hai nước sẽ có lợi hơn là xung đột.
Trong cuộc gặp gỡ bán chính thức ngày 23.10.2011 với các đại diện ASEAN tại Bali, Indonesia, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta, cũng chỉ xác định lại hai nguyên tắc căn bản mà Mỹ đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nguyên tắc thứ nhất là bảo đảm vùng biển quốc tế ở Biển Đông: “Tự do hàng hải, hàng không, tự do phát triển kinh tế và thương mại...” Nguyên tắc thứ hai là về chủ quyền trên Biển Đông: Mỹ «không bênh vực bên nào», chỉ đòi hỏi giải quyết xung khắc bằng thái độ ôn hòa, theo công pháp quốc tế và Luật biển của Liên Hiệp Quốc. Về hải lộ và không lộ quốc tế trên Biển Đông, Trung Qu ốc không dại gì gây trở ngại. Về chủ quyền trên Biển Đông, Trung Qu ốc không có nói nước đôi theo kiểu Mỹ. Hôm 25.10.2011, tờ Thời báo Hoàn Cầu của Trung Qu ốc đã cảnh cáo đích danh Việt Nam và một số nước có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông rằng các quốc gia này “cần chuẩn bị tâm lý để nghe tiếng đại bác” nếu như vẫn tiếp tục đối chọi với Trung Qu ốc.
Các nhà phân tích cho rằng Mỹ và Đài Loan khó bỏ được Trung Qu ốc vì đó là một thị trường quá lớn. Trong vòng 15 hay 20 năm nữa, Mỹ khó tìm được một thị trường tương tự để thay thế. Vì thế, Ngoại trưởng Clinton đã nhận định rằng sự hợp tác giữa hai nước sẽ có lợi hơn là xung đột.
THẾ KẸT CỦA VIỆT NAM
Ít ai tin rằng 10 nước trong khối ASEAN sẽ đứng lại với nhau để bảo vệ nhau. Hiện nay, Cambodia, Lào và Miến Điện đã đứng hẵn về phía Trung Qu ốc. Trong 7 nước còn lại, hai nước đang có tranh chấp với Trung Qu ốc và Việt Nam và Philippines.
Trong cuộc hội thảo quốc tế về an ninh Biển Đông tại Hà Nội hôm 4.11.2011, ông Đặng Đình Quý, Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam, cảnh báo rằng những căng thẳng vẫn còn tồn tại trên Biển Đông có nguy cơ sẽ trở thành những cuộc xung đột toàn diện nếu các bên liên quan không kiềm chế và tôn trọng những qui tắc cơ bản của luật quốc tế.
Vì Mỹ chủ trương sự hợp tác giữa Trung Qu ốc và Mỹ có lợi hơn xung đột, nhiều người tin rằng sẽ không có cuộc xung đột toàn diện hay chiến tranh quân sự giữa Mỹ và Trung Qu ốc trên Biển Đông, nhưng biên giới của Biển Đông có thể sẽ được tách ra xa khỏi Việt Nam, chỉ còn vùng bao quanh 5 nước không có tranh chấp với Trung Qu ốc là Indonesia, Singapore, Thái Lan, Malaysia và Brunei, và Việt Nam sẽ phải chịu áp lực nằng nề của Trung Qu ốc. Đó là vấn đề đáng quan tâm.
Ngày 8.11.2011
Lữ Giang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét